Thứ Hai, 29 tháng 8, 2016


SỐNG GIAO ƯỚC TÌNH YÊU

Giao ước giữa Thiên Chúa và con người là giao ước tình yêu, trong đó Thiên Chúa kết ước với con người và con người với Thiên Chúa. Chính tình yêu thúc bách Thiên Chúa đến với con người và chúng ta cũng mà đáp lại bằng tình yêu.  Không gì thúc bách chúng ta dấn thân phụng sự Chúa, dấn thân ký kết Giao ước với Thiên Chúa qua lời khấn, ngoại trừ tình yêu Chúa. Chỉ có tình yêu thúc bách Thiên Chúa và cũng chỉ có tình yêu thúc bách chúng ta. Thiên Chúa sống theo đòi hỏi của Giao ước mà Ngài sáng kiến ra, và con người, cách riêng là tu sĩ qua lời tuyên thệ của mình, cũng sẽ sống theo đòi hỏi của Giao ước tình yêu đó.

I. SỐNG GIAO ƯỚC TÌNH YÊU LÀ SỐNG DƯỚI THÚC BÁCH CỦA TÌNH YÊU
1. Tình yêu thúc bách Thiên Chúa
Trong thư thứ nhất của mình, thánh Gioan viết: "Thiên Chúa là tình yêu" (1Ga 4,8) Thiên Chúa là tình yêu, một tình yêu thuần túy, nghĩa là nơi Ngài chỉ có tình yêu mà thôi. Bản tính của Ngài là tình yêu, Ngài chỉ biết yêu và không có gì khác ngoài tình yêu, nơi Ngài chỉ có "có" mà không có "không". Ngài không thể vừa có lại vừa không, không thể vừa yêu lại vừa ghét, không thể vừa tha thứ lại vừa hận thù, vừa hiền lành lại vừa hung dữ. Không, Ngài chỉ có tình yêu thuần túy và Ngài yêu chúng ta bằng chính tình yêu đó.
Ngài yêu chúng ta mãi mãi, không bao giờ Ngài thôi thương chúng ta, ngay khi chúng ta phạm tội chống lại Ngài. Ngài không bao giờ ghét chúng ta, bởi vì Ngài không thể làm như thế được. Ngài yêu và chỉ có yêu mà thôi. Khao khát của Ngài là được yêu chúng ta. Do tình yêu đó, Ngài khao khát gọi chúng ta từ khi chúng ta còn trong lòng mẹ, để chúng ta bước theo Ngài, cách đặc biệt trong đời sống tu trì, để chúng ta sống với Ngài trong tình yêu. Do tình yêu, Ngài khao khát đến ở với chúng ta, tìm kiếm chúng ta, gặp gỡ chúng ta, lắng nghe chúng ta, chạm lấy chúng ta, chia sẻ những đau khổ của chúng ta. Vì yêu thương chúng ta, Ngài khao khát và thích được tha thứ cho chúng ta , vác lấy chúng ta, lôi kéo chúng ta, nên một với chúng ta, để truyền cho chúng ta sự sống vĩnh cửu, niềm hạnh phúc, sự bình an và niềm vui của Ngài.  Chính tình yêu với niềm khao khát đó đã thúc bách Ngài hành động, hành động cách điên khùng "đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta" (Rm 8,32) Trong Chúa Giêsu Kitô, Thiên Chúa sẽ làm tất cả vì yêu thương chúng ta. Chính Chúa Giêsu cũng làm tất cả vì chúng ta, ngay cả phó nộp mình vì chúng ta: "Đây là mình Thầy, hiến tế vì anh em."... "Chén này là giao ước mới, lập bằng máu Thầy, máu đổ ra vì anh em." (Lc 22,19-20) Thánh Phaolô nói: "Hiện nay tôi sống kiếp phàm nhân trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi." (Gl 2,20)
2. Tình yêu Chúa thúc bách chúng ta
Nếu Thiên Chúa yêu chúng ta và sống chết vì chúng ta, nếu Chúa Giêsu thí mạng vì chúng ta, thì đến lượt mình, chúng ta cũng phải sống chết vì Ngài. Tu sĩ sẽ sống tiếng "vì" này suốt cả cuộc đời. Họ sẽ sống vì Chúa, vì anh chị em ngang qua cộng đoàn. Không có gì thúc bách họ theo đuổi đời sống tu trì, không có gì thúc bách họ khấn ngoại trừ tình yêu đối với Thiên Chúa và Chúa Giêsu Kitô: "Tình yêu Đức Kitô thôi thúc chúng ta" (2Cr5,14)
Chính vì thế mà mỗi người thành thật với lương tâm của mình, không ngừng đặt câu hỏi: "tại sao tôi vào đây? Tôi vào đây để làm gì? Tại sao tôi khấn? Ở bước đầu có rất nhiều nguyên do khiến tôi đi tu, đó có thể là một chiếc áo dòng, một dáng vẻ thánh thiện của một nữ tu, một sự kính trọng nào đó đối với linh mục, tu sĩ; cũng có thể là do việc học hành, hoặc có thể do một thất bại trong cuộc đời... Thật ra tất cả những thứ đó Chúa có thể dùng để quyến rủ chúng ta theo Ngài, vì Thiên Chúa gọi mỗi người theo mỗi cách khác nhau, và Ngài sẽ huấn luyện họ dần dần... Đến một lúc nào đó, nhất là trước khi khấn trọn đời, với ơn Chúa, người tu sĩ phải đặt câu hỏi một cách nghiêm túc và trưởng thành: Tại sao tôi đi tu? Tại sao tôi khấn? Tôi khấn để làm gì? Và mỗi người phải đi tìm câu trả lời cho mình, để rồi từ đó mọi hoạt động của mình sẽ được chi phối bởi mục đích đó.
Tôi đi tu, tôi khấn không vì một một đích nào khác ngoài việc đáp lại tình yêu của Chúa dành cho tôi. Thiên Chúa gọi tôi và tôi chạy theo tiếng gọi của Ngài, Ngài kéo tôi và tôi để cho Ngài kéo tôi; Ngài tìm gặp tôi và bây giờ tôi muốn thấy Ngài, Ngài lắng nghe tôi và bây giờ tôi muốn lắng nghe Ngài,  Ngài chạm lấy tôi và bây giờ tôi muốn chạm lấy Ngài, Ngài theo tôi và bây giờ tôi muốn theo Ngài, Ngài vác tôi trên vai và bây giờ tôi cũng muốn vác Ngài trên vai tôi; Ngài muốn sống với tôi và bây giờ tôi muốn sống với Ngài, Ngài đã chết cho tôi và bây giờ tôi cũng muốn chết với Ngài; Ngài muốn ban bình an, niềm vui và sự sống vĩnh cửu  cho tôi, vì thế tôi tìm đến bên Ngài. Tôi đi tu, tôi khấn là tại vì Thập giá Chúa Kitô kéo tôi đi, và tôi để cho Thập giá của Ngài kéo tôi đi. Tôi đi tu và tôi khấn vì tôi muốn sống trọn vẹn tình yêu của tôi đối với Ngài. Cả cuộc đời tôi là lời tạ ơn Ngài.
3. Sống giao ước tình yêu vĩnh cửu
Để sống những điều trên đây, với tự do của mình, chúng ta ký kết một Giao ước vĩnh viễn với Thiên Chúa trong Chúa Giêsu Kitô. Khấn là một hành vi của tình yêu, một Giao ước chết vì tình yêu. Nhưng Giao ước là một sáng kiến từ Thiên Chúa, chứ không phải từ con người. Thiên Chúa với tình yêu và lòng thương xót vĩnh cửu đã muốn đến ký kết Giao ước với con người trước, Ngài khao khát ràng buộc Ngài với con người bằng một Giao ước tình yêu và vĩnh cửu, vì Ngài yêu nó. Trong suốt dòng lịch sử cứu độ, Thiên Chúa không ngừng ký kết Giao ước với con người, và Ngài lập đi lập lại Giao ước đó bất chấp những bất trung của con người.
 Giao ước đó đạt đến tột đỉnh của nó trong Chúa Kitô, một Giao ước được ký bằng máu Chúa Kitô đã đỗ ra trên thập giá. Chúa Kitô làm trung gian Giao ước giữa Thiên Chúa và chúng ta, giữa chúng ta và Thiên Chúa. Ngài vừa là Thiên Chúa thật, vừa là con người thật. Với tư  cách là Thiên Chúa, Ngài ký kết Giao ước với chúng ta, hay nói cách khác Thiên Chúa Cha trong Chúa Giêsu Kitô ký kết Giao ước với chúng ta. Với tư cách là con người, đứng về phía chúng ta, Ngài ký kết với Thiên Chúa. Nói cách khác Chúa Giêsu ở trong chúng ta ký kết Giao ước với Cha của Ngài. Giao ước của chúng ta không phải là Giao ước giữa con người với con người, mà là giữa Thiên Chúa và con người, giữa con người và Thiên Chúa; giữa một Thiên Chúa sáng tạo và một con người thụ tạo; giữa một Thiên Chúa cao cả với một con người tầm thường; giữa một Thiên Chúa thánh thiện và một con người tội lỗi; giữa một Thiên Chúa đầy sức mạnh và một con người đầy yếu đuối.
 Giao ước này là giao ước vĩnh cửu vì được móc nối với Giao ước của Chúa kitô trên thập giá. Để Thiên Chúa có thể ký kết Giao ước với chúng ta, Chúa Kitô đã phải trải qua đau khổ và cái chết; để chúng ta có thể ký kết Giao ước với Thiên Chúa, Chúa Giêsu cũng đã phải trải qua đau khổ và cái chết: "Chén này là giao ước mới, lập bằng máu Thầy, máu đổ ra vì anh em."
Như vậy lời khấn của chúng ta là một Giao ước được ký bằng máu Chúa Kitô, chứ không phải bằng giấy mực bình thường, bằng cái chết của Con Thiên Chúa, nếu có thể nói như thế, và cái chết của chúng ta.  Giao ước này được viết không phải trên giấy trắng mực đen mà trong tâm khảm của Thiên Chúa và trong tâm khảm của con người. Ngôn sứ Giêrêmia nói: "Nhưng đây là giao ước Ta sẽ lập với nhà Ít-ra-en sau những ngày đó - sấm ngôn của ĐỨC CHÚA. Ta sẽ ghi vào lòng dạ chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng Lề Luật của Ta. Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, còn chúng sẽ là dân của Ta" (Gr 31,33) và giao ước này là giao ước vĩnh viễn: "Ta sẽ lập với chúng một giao ước muôn đời: Ta sẽ không bỏ chúng nữa, sẽ tiếp tục theo dõi và không ngừng thi ân cho chúng, cũng như ban cho chúng lòng kính sợ Ta để chúng không xa rời Ta nữa." (Gr 32,40) Giao ước này đã đi vào vĩnh cửu rồi, và không bao giờ có khả năng xóa bỏ nó; Thiên Chúa cũng không bao giờ  xóa bỏ nó, bởi lẽ Ngài không bao giờ làm chuyện mâu thuẩn như thế, vì như thánh Phaolô nói, "nếu ta không trung tín, Người vẫn một lòng trung tín, vì Người không thể nào chối bỏ chính mình" (2Tm 2,13)
Như vậy một đàng chúng ta sống giao ước của chúng ta trong chính con người yếu hèn của chúng ta, nhưng đàng khác chúng ta cũng sống giao ước này trong Thiên Chúa, trong Chúa Giêsu Kitô, trong vĩnh cửu. Chúng ta đang sống giao ước vĩnh cửu trong chính con người chúng ta. Trong giao ước này chúng ta thuộc trọn vẹn về Chúa và Chúa là Chúa của chúng ta mãi mãi. Như thế cả con người của chúng ta, cả cuộc đời chúng ta là của Chúa. Và kể từ đây ta không có quyền dùng con người của mình và tất cả những gì mình sử dụng mà trái ý Chúa, bởi vì tất cả là của Chúa. Trước mỗi hành động, chúng ta phải tự hỏi: tôi làm như vậy có đẹp lòng Chúa không? Kể từ đây tất cả những gì chúng ta làm, là làm vì yêu mến, bởi vì Chúa không cần gì nơi chúng ta, ngoài tình thương chúng ta dành cho  Ngài. Trước khi về trời và trước khi bảo Phêrô theo Ngài, Chúa hỏi ông tới ba lần "Anh có yêu mến Thầy không?"(Ga 21,15-19)
Rất có thể lúc nào đó chúng ta thất tín hoặc không muốn sống (chứ không phải giữ) giao ước này nữa,  và Giáo Hội vì tình thương giải gỡ cho chúng ta, nhưng điều đó không có nghĩa là giao ước bị xóa bỏ, bởi lẽ giao ước đó đã đi vào trong vĩnh cửu rồi. Tôi không có khả năng để xóa bỏ nó, Giáo Hội cũng không có khả năng, và Thiên Chúa cũng không làm vậy. Lời thề nguyền vẫn còn đó mãi mãi.
4. Sống giao ước tình yêu ngang qua cộng đoàn
Chúng ta sống giao ước với Thiên Chúa trong cộng đoàn,  nghĩa là chúng ta sống lời khấn của chúng ta, giao ước của chúng ta, ngang qua chính cộng đoàn của mình. Cộng đoàn là môi trường cụ thể mà trong đó mỗi người sẽ sống giao ước của mình. Sống giao ước với Thiên Chúa không mang tính trừu tượng, nhưng là cụ thể qua mỗi chị em trong cộng đoàn. Tình yêu với Thiên Chúa được diễn tả trong cộng đoàn; lòng trung thành với Thiên Chúa được diễn tả ngang qua cộng đoàn, trong đó mỗi người sẽ sống chết cho Chúa. Mục đích của chúng ta, của đời sống tu trì,  của lời khấn là nhằm sống tình yêu, bởi vì không có tình yêu thì tất cả chỉ là "thanh la phèng phèng, chũm choẹ xoang xoảng." (1Cr 13, 1) Tất cả đời sống của tu sĩ là tìm kiếm bác ái, mang lại tình yêu thương bác ái trong cộng đoàn. Mà bác ái thì "nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật.7 Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả." (1Cr13,4-7)
5. Chúa Kitô và Giáo Hội bù đắp những thiếu sót của tôi
Như vậy nếu vì yếu đuối tôi có thể không trung thành với Giao ước thì ai sẽ bù đắp lại cho tôi?  Có Chúa Kitô và Giáo Hội cùng với cộng đoàn. Khi chúng ta khấn chúng ta liên kết với Chúa Kitô và cộng đoàn. Tôi không lẻ loi một mình khi tôi khấn, nhưng tôi có Chúa Kitô đang ở trong tôi và cùng khấn với tôi. không có Ngài chúng ta không bao giờ có khả năng kết ước với Thiên Chúa. Và khi tôi yếu đuối, thất tín cách nào đó thì tôi có Ngài ở bên cạnh, nâng đỡ tôi và bù đắp những sai sót của tôi.
Bên cạnh đó tôi có Giáo Hội, nhất là cộng đoàn. Khi tôi khấn tôi được cộng đoàn bao vây xung quanh. Nhưng cộng đoàn bao vây không chỉ để nhìn hoặc chỉ để thông hiệp trong lời cầu nguyện mà thôi. Chính cộng đoàn cách nào đó đang cùng khấn với tôi, đón nhận tôi như một đoàn người cùng thề nguyền với tôi. Khi tôi yếu đuối, tội lỗi cộng đoàn sẽ chia sẻ với tôi yếu đuối đó, sẽ bù lại cho tôi những gì thiếu sót nơi tôi: "Những gian nan thử thách Đức Ki-tô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh" (Cl1,24)
Tóm lại
Thiên Chúa luôn luôn đi bước trước, tại vì Ngài yêu tôi trước. Tôi muốn đáp lại tình yêu đó qua việc dâng hiến cuộc đời của tôi cho Chúa, mà không tiếc gì với Chúa, vì Chúa đã không tiếc gì với tôi. Ngài đã muốn ký kết giao ước với tôi, giờ đây tôi cũng muốn khấn, muốn ký kết với Ngài giao ước vĩnh cửu. Bất chấp những yếu đuối của tôi, tôi vẫn khấn vì tôi có Chúa Kitô ở với tôi, vì tôi tin vào lòng thương xót của Chúa, tin vào sự tha thứ của Chúa, và sự nâng đỡ của chị em. Nhưng để kết lập giao ước với chúng ta, Thiên Chúa hạ mình xuống với con người.

II. SỐNG GIAO ƯỚC TÌNH YÊU LÀ SỐNG KHIÊM HẠ
"Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng." (Mt 11,28-30)

Tình yêu làm cho người ta trở nên khiêm nhường. Càng yêu bao nhiêu, càng hạ mình bấy nhiêu, bởi vì trong tình yêu không có gì là hèn hạ. Thiên Chúa là tình yêu tuyệt đối, cho nên Ngài là Đấng khiêm nhường tuyệt đối. Ngài không đứng trên cao để kết ước với con người, nhưng Ngài ra khỏi thế giới của Ngài để đến với thân phận nghèo hèn của con người. Giao ước giữa Ngài và con người là một giao ước tình yêu, cho nên có thể nói đây là giao ước của sự khiêm nhường. Có thể nói không có sự khiêm nhường thì giao ước không có. Thiên Chúa khiêm nhường thì  con người cũng phải khiêm nhường. Muốn đi vào giao ước này chúng ta phải đi vào sự khiêm nhường tự hạ. Chỉ có khiêm nhường mới gặp sự khiêm nhường mà thôi.
1. Thiên Chúa hạ mình xuống
Thiên Chúa đã đi vào trong lịch sử con người, lịch sử của Israel. Ngài không phải là Thiên Chúa của các triết gia, Ngài là "Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac, Thiên Chúa của Giacóp" (Xh 3,6) Ngài muốn  sống với con người, như con người, chia sẻ buồn vui với con người, ký kết giao ước trong đó Ngài làm tất cả vì nó.  Ngài không muốn sống trên, sống khác với con người. Tình yêu là vậy đó, tình yêu đẩy Thiên Chúa đi vào trong cái gì là hèn hạ của con người. Với Ngài không có gì là hèn hạ cả, Ngài chỉ muốn một điều là sống như nó. Ngài làm thế là tại vì mỗi người là cái gì quý giá vô cùng. Người ta sẽ cho Ngài là điên khùng, nhưng Ngài không thèm để ý đến chuyện đó, điều Ngài quan tâm nhất, chính là con người. Một người mẹ thương con sẽ chấp nhận tất cả: khổ cực, nghèo đói, rách rưới miễn sao con của bà được hạnh phúc. Thiên Chúa còn hơn cả một người mẹ, cho nên Ngài sẽ chấp nhận tất cả để thấy con của mình hạnh phúc. Sự khiêm hạ của Thiên Chúa được thể hiện trong một con người: Đức Giêsu. 
2. Ngôi Lời đã làm người
Thánh Gioan nói: "Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta"(Ga 1,14) Chúa Giêsu chính là sự khiêm nhường của Thiên Chúa. Chúa Giêsu đến sống giữa con người, như con người. Ngài là Con Thiên Chúa, thế mà Ngài sống như một người phục vụ, một người đầy tớ quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ (Ga 13,15). Hơn nữa Ngài "vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự." (Pl 2,6-8) Thập giá là tột đỉnh của khiêm nhường và chính trên thập giá mà Thiên Chúa ký kết giao ước vĩnh cửu với con người và con người với Thiên Chúa. Sẽ không có Giao Ước nếu như không có sự khiêm ngường. Càng khiêm nhường bao nhiêu thì Giao Ước trở nên đích thực bấy nhiêu. Cho nên sự khiêm nhường của Chúa là khiêm nhường tột bực. Đó là khiêm nhường của tình yêu. Không có tình yêu thì không thể có sự khiêm nhường đích thực và trọn vẹn. Không có khiêm nhường thì không thể  "chết cho người mình yêu" được. Giao ước này là Giao ước tình yêu. Như vậy khi Thiên Chúa ký kết giao ước với chúng ta, Ngài muốn dẫn chúng ta vào trong hành vi sâu thẳm của thế giới Ngài: Khiêm nhường. Sự khiêm nhường tạo nên vực thẳm của Thiên Chúa, ở đó sự dữ và những ai theo nó không bao giờ biết tới, vì không bao giờ nó có sự khiêm nhường thẳm sâu được, nó chỉ có kiêu ngạo mà thôi. Chỉ trong khiêm nhường con người mới bắt gặp được tình yêu. Muốn kinh nghiệm được tình yêu Thiên Chúa, người tu sĩ cũng phải đi vào trong sự khiêm nhường của Chúa.
3. Người tu sĩ đi xuống trong vực thẳm khiêm nhường của Thiên Chúa
Khi khấn người tu sĩ kết ước với Thiên Chúa, một giao ước tình yêu, trong đó Thiên Chúa đầy yêu thương và khiêm nhường đã đi bước trước đến kết ước với con người. Ngài muốn dẫn người tu sĩ đi vào trong vực sâu của sự khiêm nhường, để ở đó người tu sĩ gặp được tình yêu đích thực, một tình yêu nằm sâu trong vực thẳm của sự khiêm nhường Thiên Chúa.
Con đường dẫn tới sự khiêm nhường đích thực đó, chính là Chúa Giêsu. Chỉ mình Chúa Giêsu mới có thể dẫn chúng ta vào trong sự khiêm nhường thật. Sự khiêm nhường của Chúa Giêsu khác với sự khiêm nhường theo cách hiểu của nhân loại, đây không phải là một sự nhu nhược yếu thế, bất lực, hèn kém, nhưng đây là sự khiêm nhường của tình yêu, một sự khiêm nhường cho đến chết, một sự khiêm nhường của sức mạnh. Và vì thế gian không hiểu được nên cho đó là một sự điên khùng, yếu nhược, nhưng đối với Đức Kitô và với những ai tin vào Ngài thì đó lại là sự khôn ngoan và sức mạnh của Thiên Chúa. Thánh Phaolo viết: "Trong khi người Do-thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy-lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Đấng Ki-tô bị đóng đinh, điều mà người Do-thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ. Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do-thái hay Hy-lạp, Đấng ấy chính là Đức Ki-tô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Vì cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người." (1Cr 1,22-25)
Khi chúng ta khấn chúng ta sẽ trở thành người điên khùng và yếu nhược trước mặt nhân loại. Nhưng nếu giờ đây chúng ta có điên khùng là vì Chúa đã điên khùng vì chúng ta trước rồi. Và giờ đây, nói như thánh Phaolô, "chúng tôi có điên, thì cũng là vì Thiên Chúa" (2Cr 5,13) và "chúng tôi điên dại vì Đức Ki-tô." (1Cr4,10) Tuy nhiên chúng ta biết "những gì thế gian cho là điên dại, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ khôn ngoan, và những gì thế gian cho là yếu kém, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ hùng mạnh." (1Cr 1,27) Chúng ta chấp nhận để cho thập giá điên khùng của Ngài kéo chúng ta đi, ngay cả những nơi chúng ta không muốn, chỉ vì một điều duy nhất : Tôi yêu mến Ngài.
Nơi Chúa Giêsu, nhất là trên thập giá, trong cái điên khùng đó, một vực thẳm khiêm nhường của Thiên Chúa mở ra cho người tu sĩ, trong đó Thiên Chúa tình thương và thương xót đang mời gọi con người bước vào. Khi chúng ta khấn là chúng ta muốn đi vào trong vực thẳm của sự khiêm nhường đó và muốn kết ước với Ngài bằng việc thề hứa đi theo Ngài trong sự khiêm nhường. Giao ước của chúng ta là giao ước tình yêu, giao ước khiêm nhường. Kể từ khi chúng ta vào nhà Dòng, nhất là kể từ đây, từ ngày chúng ta khấn lần đầu, khấn trọn đời, chúng ta nguyền sẽ không ngừng tìm kiếm sự khiêm nhường, cùng với lời kêu van xin cho được sự khiêm nhường của Ngài, khiêm nhường của tình yêu. Ngày khấn không phải là ngày chúng ta được nâng lên theo cách hiểu của người đời mà là ngày chúng ta để cho Thập giá Chúa Kitô kéo chúng ta vào trong sự khiêm nhường thẳm sâu của Ngài, khiêm nhường cho đến chết.
Khiêm nhường của chúng ta là khiêm nhường của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu nói: "hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường" (Mt 11,29) Thánh Phaolô thì nói: "Giữa anh em với nhau, anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Ki-tô Giê-su" (Pl 2,5) Tâm tình như Đức Kitô ở đây là tâm tình khiêm tốn. Ngày khấn, tôi để cho sự khiêm nhường của Chúa Kitô đi vào trong cuộc đời của tôi, trong máu huyết của tôi để tôi không còn gì tự phụ nữa. Từ đây người tu sĩ "chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta! Nhờ thập giá Người, thế gian đã bị đóng đinh vào thập giá..." (Gl 6,14), từ đây họ mang trên thân xác họ vết thương của sự khiêm nhường Chúa Kitô, họ không muốn ai kéo họ ra khỏi thập giá Chúa của họ. Thánh Phaolô nói: "Từ nay, xin đừng có ai gây phiền toái cho tôi nữa, vì tôi mang trên mình tôi những dấu tích của Đức Giê-su." (Gl 6,17) Ngày khấn chúng ta nói với Chúa rằng: Con sẽ không để ai hoặc bất cứ thứ gì dụ con, kéo con ra khỏi thập giá của Chúa. Chính trong sự khiêm nhường của Thập giá mà họ gặp được khuôn mặt của Thiên Chúa tình thương và đầy lòng thương xót. Đời của họ từ đây sẽ xoay quanh thập giá Chúa Kitô vì họ biết ý nghĩa cuộc đời họ nằm ở đó; bình an, niềm vui và hạnh phúc của họ nằm ở đó.
4. Người tu sĩ đi xuống với anh chị em mình
Hành vi khiêm nhường mà người tu sĩ nói lên trong ngày khấn sẽ được sống trong cộng đoàn. Họ không sống sự khiêm nhường trong tưởng tượng với Chúa, mà như Chúa Kitô họ sống sự khiêm nhường ngay chính trong cộng đoàn. Cộng đoàn không còn là nơi họ sợ hãi vì phải tuân giữ lời khấn, nhưng là nơi giúp họ sống giao ước tình yêu khiêm nhường. Rất có thể họ sẽ gặp những thử thách trong đó, nhưng chính khi đó họ gặp được cơ hội để đi vào trong sự khiêm nhường của Chúa, trong vực thẳm của sự khiêm nhường, điều mà họ đang tìm kiếm. Trong cộng đoàn họ sống lời giao ước của họ với Chúa trong sự khiêm nhường, vâng phục và lắng nghe. Họ không sống trên chị em, nhưng như chị em; họ không sống để chị em phục vụ nhưng chính họ phục vụ chị em; họ không vênh vang tự phụ, nhưng họ ý thức rằng họ nhận lãnh tất cả từ Chúa ngang qua cộng đoàn. Thánh Phaolô khuyên: "Đừng làm chi vì ganh tị hay vì hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình. Mỗi người đừng tìm lợi ích cho riêng mình, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác" (Pl 2, 3-4)
Khi sống khiêm nhường người tu sĩ sẽ mang lại lợi ích cho chị em mình: "Chúng tôi yếu đuối, còn anh em thì mạnh mẽ; anh em được kính trọng, còn chúng tôi thì bị khinh khi." (1Cr 4,10) Tình bác ái thể hiện trong sự khiêm nhường. Chính sự khiêm nhường sẽ mang lai niềm vui và bình an cho cộng đoàn.
5. Khiêm nhường trước mặt Chúa và trước măt mọi người
Người tu sĩ tìm cách sống thật trước mặt Chúa và chị em mình, họ không tìm cách che đậy, có sao họ sống vậy. Họ luôn ý thức khiêm nhường là sống trong sự thật trước mặt Chúa. Sự thật là tất cả những gì chúng ta có là do Chúa ban, còn tự bản chất chúng ta đâu có gì. Vì thế chúng ta không thể vênh vang tự đắc được. Thánh Phaolô nói: "khi anh em được Chúa kêu gọi, thì trong anh em đâu có mấy kẻ khôn ngoan trước mặt người đời, đâu có mấy người quyền thế, mấy người quý phái." (1Cr 1,26) Và vì thế chúng ta đâu có gì mà vênh vang tự phụ: "Bạn có gì mà bạn đã không nhận lãnh? Nếu đã nhận lãnh, tại sao lại vênh vang như thể đã không nhận lãnh?" (1Cr 4,7)
Khiêm nhường giúp người tu sĩ nhận ra những sai sót và yếu đuối của mình đối với Chúa và với anh chị em mình, từ đó họ luôn kêu xin lòng thương xót Chúa và cộng đoàn, và cũng từ đó biết xót thương và thông cảm với những anh chị em yếu đuối tội lỗi. Họ luôn luôn sống như "người thu thuế, đứng đằng xa, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời, vừa đấm ngực vừa thưa rằng: "Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi." (Lc 18,13) Khi sống khiêm nhường như thế chúng ta mang lại bình an cho mình và cho cộng đoàn. Kiêu ngạo chỉ làm cho lộn xộn mà thôi. Khi khấn vâng phục chúng ta muốn sống vâng phục thánh ý Chúa và chị em trong khiêm nhường và yêu mến.
Tóm lại
Tình yêu đã thúc đẩy Thiên Chúa đi xuống với chúng ta để kết ước với chúng ta. Trong Con Một của Ngài, Ngài trở nên hoàn toàn khiêm nhường. Khi chúng ta khấn chúng ta cũng được Thiên Chúa mời gọi đi vào trong hành vi khiêm nhường của Ngài, bằng cách sống khiêm nhường trước mặt Chúa và chị em của mình. Chỉ khi chúng ta sống khiêm nhường thật chúng ta mới có thể trung thành với lời khấn, với giao ước giữa Chúa và chúng ta.

III. SỐNG GIAO ƯỚC TÌNH YÊU LÀ ĐI THEO
"Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo.35 Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy.36 Vì được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì người ta nào có lợi gì?37 Quả thật, người ta lấy gì mà đổi lại mạng sống mình?" (Mc 8,34-36)
Khi thương nhau người ta sẽ theo nhau. Không ai theo người mà mình không thương. Ai thương trước thì theo trước. Một người mẹ, người cha thương con mình thì sẽ theo nó, ngay cả khi nó ở trong tu. Thiên Chúa yêu con người  bằng tình yêu muôn thủa, chính vì thế mà Ngài đi theo chúng ta. Nếu chúng ta thương Chúa, chúng ta cũng sẽ đi theo Ngài.  
1. Thiên Chúa đi theo con người
Thánh Gioan nói: "Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước" (1Ga 4,19) Thánh Augustinô thì nói: "con yêu Ngài quá muộn." (Tự thú) Vì Ngài yêu con người trước, nên Ngài đi theo con người. Cả Lịch sử cứu độ là hành trình của một Thiên Chúa đi theo con người vì tình yêu đối với nó:"ĐỨC CHÚA đi đằng trước họ: ban ngày thì ở trong cột mây để dẫn đường, ban đêm thì ở trong cột lửa để soi sáng, nên họ có thể đi cả ban ngày lẫn ban đêm. Ban ngày cột mây đi trước dân không rời, ban đêm cột lửa cũng vậy." (Xh 13,21) Thiên Chúa đi trước hay đi sau họ, tất cả muốn nói lên rằng Thiên Chúa muốn đi theo con người. Ngài đi theo nó vì thương nó; đi theo nó để ở với nó, để giúp nó chống lại quân thù, để nâng đỡ nó khi nó yếu đuối, để tha thứ cho nó khi nó thất tín; đi theo nó để chia sẻ với những khổ đau của nó; đi theo nó để nó có thể cảm nhận ra tình yêu của Ngài đối với nó, để nó có thể nghe Ngài, thấy Ngài và chạm lấy Ngài. Để nói lên rằng Ngài muốn đi theo nó mãi mãi, Ngài đã ràng buộc với nó bằng một giao ước vĩnh cửu.
2. Thiên Chúa theo con người trong Đức Kitô
Vì yêu thương, Thiên Chúa không chỉ muốn đi theo con người bằng ý tưởng hay bằng hình ảnh biểu tượng, mà là thực sự trong một con người là Đức Giêsu Kitô, Con Một Ngài. "Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta" (Ga 1,14) Chúa Giêsu đi theo các môn đệ trong cuộc sống thường nhật, để chia sẻ cảnh khốn cùng của họ, để nâng đỡ họ, để làm cho họ không còn sợ hãi:"Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!" (Mt 14,27) Ngài ở giữa họ không phải như một bóng ma, nhưng là Đấng vừa là Chúa thật vừa là người thật.(x.Mt 14,22-33)
Ngài đi theo con để đẩy lui những bệnh hoạn tật nguyền, để chữa lành, để giúp nó chống lại sự dữ(Mt 15,21-29), để tha thứ cho nó và tìm cách làm cho nó tha thứ (Ga 8,2-11) và sau cùng Ngài theo con người trong cái chết giống như nó, một cái chết thê thảm trên thập giá mà ai nhìn cũng phải kinh hãi che mặt. Và cũng trong cái chết đó Ngài ký kết giao ước với con người, trong đó có mỗi người chúng ta.
Ngày nay Chúa cũng đang đi theo mỗi người chúng ta vì yêu thương chúng ta, để chia sẻ gánh nặng khi chúng ta gặp thử thách, để nâng đỡ và tha thứ khi chúng ta sa ngã; để chữa lành khi chúng ta bệnh hoạn về tâm linh cũng như thể lý. Ngài đi theo chúng ta và tìm mọi cách để chúng ta nhận ra Ngài, nghe Ngài, thấy Ngài và chạy theo Ngài, nói như thánh Augustinô: "Chúa gọi con, Chúa la to, và đã phá tan sự điếc lác của con. Chúa rực sáng, Chúa chiếu toả và đã xua tan sự mù loà của con. Chúa toả hương thơm, con hít lấy và con khao khát Chúa. Con đã nếm thử và bây giờ con đói, con khát Chúa. Chúa đã chạm đến con và con nóng lòng tìm bình an của Chúa." (Tự Thú)
Ngài đi theo chúng ta bất chấp yếu đuối, tội lỗi của chúng ta. Ngài đi theo chúng ta ngay cả khi chúng ta không muốn theo Ngài. Ngài vẫn đưa mắt dõi theo chúng ta mặc dù dúng ta chẳng thèm để ý đến Ngài. Ngài vẫn cầm tay dắt chúng ta đi, ngay cả vác chúng ta trên vai khi chúng ta gặp khó khăn thử thách, mặc dù chúng ta không cảm nhận có Ngài. Ngài vẫn thì thầm bên chúng ta, mặc dù chúng ta không nghe hoặc không muốn nghe. Ngài làm thế vì Ngài không thể làm khác được. Ngài cứ âm thầm lẽo đẽo theo chúng ta, và Ngài không muốn chúng ta sợ Ngài vì Ngài yêu chúng ta. Ngài không sợ chúng ta và không muốn làm cho chúng ta sợ.
Ngài không ở giữa chúng ta như một bóng ma làm chúng ta sợ hãi, nhưng là người thật và là Thiên Chúa thật. Bóng ma không có thật, chỉ là ảo. Ngài không phải là bóng ảo, Ngài có thật và thật hơn bất cứ cái gì: "Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây?" (Lc 24,39) khi Ngài tha thứ cho chúng ta, khi Ngài chạm vào chúng ta và cho chúng ta chạm lấy Ngài, Ngài không còn là bóng ma. Ngài tha cho chúng ta để nói lên lòng thương xót của Ngài đối với chúng ta. Và như thế chúng ta không có lý do để sợ Ngài.
Khi đi theo chúng ta Chúa chẳng có lợi gì, ngoài mỗi người chúng ta. Trong tình yêu đích thực không có gì khác ngoài người mình yêu. Trong giao ước mà Ngài ký kết với chúng ta, không có chuyện ích kỷ trong đó. Ngài theo chúng ta không phải vì lợi ích cho Ngài, nhưng là cho chúng ta.
3. Theo Chúa Kitô
Chúa Giêsu không ngừng mời gọi chúng ta theo Ngài và Ngài thêm: "Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo." (Mt 16,24) Đi theo Chúa chúng ta phải chấp nhận từ bỏ và đi vào con đường thập giá của Ngài. Chúng ta chấp nhận từ bỏ con người cũ, để sống theo con người mới. Từ bỏ con người cũ là từ bỏ lối sống theo xác thịt, đó là: "dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hoà, ghen tuông, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén, và những điều khác giống như vậy." (Gl 5,19-21) Sống theo con người mới là lối sống theo Thần Khí, đó là: "Bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ" (Gl 5,22-23)
Nhưng từ bỏ chính mình là điều quan trọng và cũng là điều khó. Bỏ sở thích của mình, bỏ lập trường của mình để đi vào con đường vâng phục không phải là chuyện dễ dàng. Khi đó chúng ta thực sự đi vào mầu nhiệm thập giá của Chúa Kitô. Mầu nhiệm thập giá luôn xuất hiện trước mặt người tu sĩ. Khi khấn người tu sĩ muốn sống trọn vẹn bí tích rửa tội, trong đó chúng ta "được dìm vào trong cái chết của Người" (Rm6,4) Qua lời khấn một lần nữa người tu sĩ muốn chết với Đức Kitô, muốn đi vào cái điên rồ của Thập giá, muốn đi vào trong sự vô lý của Thập giá, trong đó họ chỉ biết câm lặng để cho sự vâng phục, sự khó nghèo và tình yêu của Ngài kéo họ đi. Họ không cưởng lại vì họ yêu mến Chúa Kitô. Người tu sĩ muốn sống như lời thánh Phaolô: "Vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Ki-tô" (Pl 3,8) Đức Thánh Cha Phanxicô nói: Tôi có thể là giám mục, linh mục, tu sĩ, giáo dân nhưng tôi không phải là môn đệ Chúa Kitô nếu như tôi không có Thập giá"
Khi chúng ta theo Ngài là chỉ cho chính mình Ngài. Theo Ngài vì Ngài và cho Ngài mà thôi. Theo Ngài nếu chúng ta có được gì, đó là được chính mình Ngài. Theo Ngài vì Ngài, chứ không phải vì bất kỳ cái gì. Chúa theo tôi vì tôi và giờ đây tôi theo Ngài cũng chỉ vì Ngài. Cho nên giả sử cả cuộc đời dâng hiến chúng ta không được gì ngoài Chúa, thế là đủ rồi. Thật ra vào nhà Dòng không phải là để được chuyện này chuyện nọ mà là được chính Chúa.
4. Theo cộng đoàn
Bên cạnh viẹc theo Chúa, chúng ta cũng đi theo cộng đoàn, hay nói đúng hơn là chúng  ta theo Chúa ngang quan cộng đoàn. Cũng như chúng ta theo Chúa vì tình yêu thì chúng ta theo cộng đoàn cũng vì tình yêu. Theo chị em không phải vì ích lợi cho mình mà là cho chị em. Vào nhà Dòng, nhất là khi khấn, người tu sĩ không tìm kiếm gì khác ngoài tình yêu. Ở đâu có tình yêu, người tu sĩ chạy tới đó. Từ đây người tu sĩ sẽ chạy trốn những gì làm xúc phạm đến tình bác ái. Họ sẻ chia vui buồn với cộng đoàn, "vui với người vui, khóc với người khóc."  Họ, ít nhất là trong quyết chí, không bao giờ nói xấu chị em, họ sẵn sàng tha thứ cho chị em. Họ theo chị em bằng tình thương, chứ không bằng sự ghen tị; bằng sự tha thứ thông cảm, giúp đỡ chứ không bằng sự dò xét, rình mò, xét đoán....
Họ sống trong cộng đoàn hoàn toàn là con người thật, thật với chính mình, thật với chị em. Họ sẽ tìm cách đẩy lui những gì nghịch với tình bác ái, đó là: "giận dữ, nóng nảy, độc ác, thoá mạ, ăn nói thô tục." (Cl 3, 8) Trái lại họ sống như lời thánh Phaolô khuyên : "Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương. Vì thế, anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hoà và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau Trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái: đó là mối dây liên kết tuyệt hảo." (Cl 3,12-15)
Họ không sống như bóng ma trong cộng đoàn, và cũng không coi chị em như là bóng ma. Chúng ta không theo chị em như bóng ma theo sau. Khi chúng ta làm cho chị em sợ hãi bằng lối sống xác thịt, lúc đó chúng ta trở thành bóng ma trong cộng đoàn, ai thấy cũng sợ. Ngược lại nếu chúng ta sợ chị em, chúng ta cũng sẽ coi chị em như những bóng ma trong cộng đoàn. Để sống ra khỏi tình trạng này, cần tạo nên một sự tin tưởng lẫn nhau. Điều này cần sống thật với nhau. Và chỉ có tình thương mới không sợ nhau vì "tình yêu không biết đến sợ hãi; trái lại, tình yêu hoàn hảo loại trừ sợ hãi" (1 Ga 4,18) Tình yêu, sự thông cảm, chia sẻ, nâng đỡ và nhất là tha thứ làm cho chúng ta không thành những bóng ma trong cộng đoàn.
Trong khi đi theo chị em, nếu chúng ta đi chậm chúng ta cố gắng đi nhanh để kịp chị em. Nếu chúng ta đi nhanh chúng ta phải biết chờ đợi. Trong xã hội có văn hóa chờ đợi thì trong đời sống thiêng liêng cũng có tinh thần chờ đợi. Nếu bên ngoài biết chờ đợi là nét đẹp thì trong đời sống thiêng liêng, tinh thần chờ đợi càng đẹp hơn nữa. Chờ đợi nói lên sự khiêm tốn, không muốn vượt mặt ai, nói lên sự kiên nhẫn.
Khi khấn vâng phục, khó nghèo và khiết tịnh, chúng ta muốn nói lên rằng chúng ta muốn đi theo chị em trong sự lắng nghe và vâng phục, trong sự từ bỏ hết mọi sự để sống như chị em, trong tình yêu trọn vẹn dành cho chị em và cho tất cả những ai chúng  gặp gỡ.
Tóm lai
Thiên Chúa theo chúng ta vì yêu thương, chúng ta cũng theo Chúa vì yêu thương. Ngài ký kết giao ước với chúng ta để theo chúng ta, thì chúng ta ký kết giao ước để theo Ngài, và chúng ta theo Ngài ngang qua chị em chúng ta. Từ đây người tu sĩ sẽ không chạy theo những gì không phải là Chúa Kitô. Họ chấp nhận đau khổ vác thập giá để được theo Ngài trong đau khổ nghèo hèn cùng với chị em, với con tim hoàn toàn dành cho Chúa, cho chị em và cho mọi người. Kể từ đây họ chỉ biết tìm kiếm một mình Ngài mà thôi.
IV. SỐNG GIAO ƯỚC TÌNH YÊU LÀ KHÔNG NGỪNG TÌM KIẾM

Khi hai người thương nhau họ tìm cách gặp nhau. Cha mẹ thương con sẽ tìm  cách  gặp con; con cái thương cha mẹ sẽ tìm cách gặp cha mẹ. Tìm cách gặp nhau là đặc tính của tình yêu. Khi không còn thương nhau nữa, người ta sẽ không còn muốn gặp nhau nữa. Thiên Chúa yêu chúng ta và yêu mãi mãi, vì thế Ngài tìm cách gặp chúng ta và Ngài đi tìm chúng ta mãi mãi. Còn chúng ta, nếu yêu mến Ngài chúng ta cũng sẽ tìm cách gặp Ngài.
1. Thiên Chúa tìm chúng ta.
Trước khi phạm tội Thiên Chúa và con người đi đi lại lại với nhau trong tương quan tốt lành. Nhưng sau khi phạm tội, con người chạy trốn Thiên Chúa, còn Thiên Chúa lại không ngừng tìm kiếm nó. Tình yêu làm cho Thiên Chúa trở thành Đấng muốn đi tìm kiếm con người. Tất cả điều Thiên Chúa ưa thích, đó là tìm kiếm con người và tìm cho bằng được. Ngài nhớ nó bởi vì Ngài thương nó, Ngài say mến nó. Ngài sẽ rất hạnh phúc khi gặp được con người, trái lại khi không gặp được nó, Ngài bồn chồn lo âu, Ngài chờ đợi nó như người cha trong dụ ngôn Người Cha Nhân Hậu (x.Lc 15,11-32). Người cha đã mừng rở khi thấy con từ đằng xa.
Con người chạy trốn, còn Thiên Chúa cứ gọi nó: "con đang ở đâu" (St 3,9) Cả lịch sử cứu độ là một hành trình tìm kiếm con người của Thiên Chúa. Thiên Chúa ký kết giao ước với nó để nó ở với Ngài nhưng rồi do thất tín con người lại tiếp tục chạy xa giao ước và Thiên Chúa lại đi tìm kiếm nó để đưa nó về với giao ước mà Ngài đã ký kết với nó. Câu "Con đang ở đâu" nói lên khao khát muốn tìm gặp con người cho dù nó không vâng lời Ngài, bởi vì Ngài yêu nó.
2. Chúa Giêsu Kitô, hiện thân của Thiên Chúa
Thiên Chúa trong Con Một của Ngài là Đức Giêsu Kitô đến tìm kiếm con người. Chúa Giêsu "đến để tìm và cứu những gì đã mất" (Lc 19,10) Ngài như người chăn chiên bỏ chín mươi chín con chiên để đi tìm con chiên lạc và khi tìm được rồi Ngài vui mừng vác chiên trên vai. (x.Lc 15,4-7) Chúa Giêsu là Lời của Thiên Chúa, là tiếng gọi của Thiên Chúa đến với con người, và tiếng gọi đó đạt đến tột đỉnh của nó trên thập giá. Chính trên thập giá Thiên Chúa tìm thấy con người đi hoang, và cũng chính trên đó, Ngài kết ước với con người bằng máu Con Một Ngài, một Giao ước mới và vĩnh viễn. Từ đây Thiên Chúa ràng buộc Ngài với chúng ta cách chắc chắn hơn, sâu xa hơn vì Giao Ước này được ghi khắc trong tâm khảm của con người, như đã được các tiên tri loan báo: "Này sẽ đến những ngày - sấm ngôn của ĐỨC CHÚA - Ta sẽ lập với nhà Ít-ra-en và nhà Giu-đa một giao ước mới, ... Ta sẽ ghi vào lòng dạ chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng Lề Luật của Ta. Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, còn chúng sẽ là dân của Ta."(Gr 31,31-33)
3. Thiên Chúa tìm kiếm chúng ta trong Giao Ước Tình Yêu.
Khi chúng ta tuyên thệ, nhất là khấn trọn đời, chúng ta bước vào trong giao ước vĩnh viễn, trong đó Thiên Chúa tự ràng buộc mình bằng chính tình yêu và lòng trung thành của Ngài. Do tình yêu và lòng trung thành đó, Thiên Chúa sẽ không bao giờ lìa bỏ chúng ta, Ngài muốn mãi mãi thuộc về chúng ta và chúng ta mãi mãi thuộc về Ngài. Ngài luôn ở bên cạnh chúng ta, và hạnh phúc của Ngài là luôn được nhìn thấy chúng ta. Nếu không  thấy chúng ta, nếu chúng ta thất tín đi hoang, Ngài sẽ đi tìm chúng ta, tìm khi nào thấy thì thôi. Có thể nói trong Giao Ước tình yêu là lời khấn, Thiên Chúa sẽ không ngừng tìm kiếm chúng ta. Nếu chúng ta đóng cửa lòng lại, Ngài sẽ đứng ngoài cửa để chờ chúng ta mở cửa: "Này đây Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa với người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Ta."(Kh 3,20) Khi chúng ta phạm tội và chạy trốn Ngài, Ngài sẽ gọi chúng ta ta:"Con đang ở đâu" Nếu chúng ta quên Ngài, Ngài sẽ tìm mọi cách để chúng ta nhớ đến Ngài; nếu chúng ta không nghe tiếng Ngài, Ngài sẽ làm cho chúng ta nghe tiếng Ngài. Nói như thánh Augustin, Ngài sẽ "la to để phá tan sự điếc lác" của chúng ta, để chúng ta có thể nghe tiếng Ngài.
4. Tìm kiếm Thiên Chúa trong giao ước tình yêu
Vì yêu thương, Thiên Chúa không ngừng tìm kiếm chúng ta. Chúng ta vì yêu mến Chúa cũng sẽ đi tìm kiếm Ngài. Chúng ta đi tìm Ngài không vì một mục đích nào khác ngoài việc vì yêu  Ngài. Khi chúng ta tuyên thệ chúng ta muốn nói lên rằng chúng ta chỉ muốn tìm kiếm một mình Thiên Chúa trên hết mọi sự. Mọi hoạt động của người tu sĩ sẽ quy hướng về một điều duy nhất: Tìm kiếm Chúa và Thánh Ý Ngài. Người tu sĩ từ nay không còn đi kiếm bất cứ chuyện gì khác ngoài Chúa Kitô, Đấng mình đã kết ước. Đi tìm cái gì khác ngoài Ngài là phản bội giao ước mà chúng ta đã thề hứa.
Do tình yêu trong Giao Ước họ quay quắt đi tìm Chúa khi không thấy Ngài. Như bà Maria Mađalêna, họ sẽ gào khóc như một đứa trẻ: "Người ta đã lấy mất Chúa tôi rồi, và tôi không biết họ để Người ở đâu." (Ga20,13)  Người tu sĩ không được để bất cứ ai hoặc bất cứ điều gì lấy mất Chúa của mình. Mất Chúa là mất cả tất cả. Đời họ chỉ có ý nghĩa, có niềm vui và hạnh phúc khi có Chúa bên họ. Vì vậy cả cuộc đời họ chỉ biết tìm kiếm và sống cho Chúa mà thôi. Bên ngoài họ sống như mọi người, nhưng bên trong là cả một dòng chảy được tác động bởi Thần Khí hướng về Chúa của họ. Từ ngày khấn, nói như thánh Inhaxiô thành Antiôkia, trong họ chỉ còn một dòng nước chảy rì rào cứ bảo lòng họ : "Về nhà Cha đi !" Từ ngày khấn con người họ được móc nối với Chúa Kitô,  khuynh hướng sống của họ là khuynh hướng của Chúa Kitô, họ sống nhưng không phải họ sống mà là Chúa Kitô sống trong họ (x.Gl2,20).
Khi khấn lời khấn trinh khiết người tu sĩ sẽ nói lên rằng họ muốn dành trọn vẹn tình yêu cho Chúa, họ muốn để cho cuộc đời mình được xâm nhập bởi tình yêu Chúa Kitô, một tình yêu hy sinh cho đến chết. Kể từ đây trái tim của họ thuộc về Chúa, họ sẽ không đi tìm một tình yêu khác, hoặc tìm cách bù đắp cách này hay cách khác. Họ chỉ tìm kiếm những sự trên trời, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa, ngang qua cuộc sống hằng ngày. Họ sống cuộc sống như mọi người, nhưng khác mọi người vì cuộc sống họ đang ẩn giấu trong Thiên Chúa(x.Cl3,1-3).  Như thánh Inhaxiô Antiokia Họ nói:"Tôi kiếm tìm Đấng đã chết cho chúng ta ; tôi mong mỏi Đấng sống lại vì chúng ta."
Khi khấn khó nghèo người tu sĩ trở nên "trắng tay" để chỉ còn dành toàn bộ cuộc đời cho Chúa. Họ chấp nhận "trắng tay" chỉ vì muốn tìm kiếm và sống với một  Đấng mà cũng vì họ đã trở nên "trắng tay", cũng vì muốn cho họ giàu có mà trở nên khèo khó (x. 2Cr 8,9) Khi khấn khó nghèo chúng ta  muốn trở nên hoàn toàn trơ trui để chỉ tìm kiếm một mình Thiên Chúa, Đấng sẽ bù đắp những thiếu hụt nơi chúng ta. Khi chúng ta nghèo chúng ta mới đi tìm,  còn nếu chúng ta có đầy đủ chúng ta sẽ không còn đi tìm. Khấn nghèo để nghèo chứ không phải để giàu theo kiểu người đời, nghèo vì tình yêu, nghèo vì bán mọi sự để có kho tàng, vì viên ngọc quý là chính Đức Kitô (x. Mt 13,44-45). Đi tìm kiếm bù đắp nơi của cải là phản  bội lại với cái nghèo  của Chúa Kitô, của Thiên Chúa mà chúng ta tuyên thệ trung thành với.
Khi khấn vâng phục, chúng ta muốn nói lên ý chí đi tìm kiếm và sống theo thánh ý của Chúa. Kể từ đây người tu sĩ không còn đi tìm ý mình với câu hỏi: "làm gì đây?" , mà là tìm ý Chúa: "Chúa muốn tôi làm gì đây?" Câu hỏi này phải được đặt ra cho chúng ta cách thường xuyên, để không bao giờ đi tìm kiếm ý mình, mà chỉ tìm kiếm và sống theo ý Chúa thôi.  Với lòng khiêm tốn chắc chắn chúng ta sẽ được Ngài tỏ mình ra vì "ai không thách thức Người, thì được Người cho gặp. Ai tin tưởng vào Người, sẽ được Người tỏ mình cho thấy" (Kn1,2)
5. Tìm kiếm Chúa qua cộng đoàn
Khi chúng ta khấn chúng ta khấn trong tay Bề Trên và giữa chị em, cho nên giao ước tình yêu này cũng là giao ước mà qua đó người tu sĩ gắn kết với cộng đoàn. Họ không sống Giao ước ở bên ngoài, ở gia đình mà là ở trong cộng đoàn. Thiên Chúa của chúng ta không phải là Thiên Chúa của các triết gia,  của trí tưởng tượng mà là Thiên Chúa, Cha của Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã đến trong thế gian, đã mang thân phận con người, đã sống và hoạt động như con người, và giờ đây qua cái Chết và sự Phục Sinh, Ngài đang hiện diện cách đích thực trong mỗi chị em trong cộng đoàn.  Sống giao ước tình yêu là tìm kiếm và sống tình yêu đối với chị em. Khi chúng ta tìm kiếm và sống tình yêu đối với chị em là ta đang tìm kiếm và sống tình yêu với Chúa. Mục đích của lời khấn chính là sống tình yêu. Người tu sĩ không làm gì to tát, họ chỉ có tìm kiếm và sống cho một  điều duy nhất, chính là tình yêu, vì "không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm choẹ xoang xoảng." (1Cr 13,1) Họ làm nhiều việc nhưng chỉ cho một chuyện duy nhất: yêu mến Thiên Chúa và chị em.
Ba lời khấn giúp chúng ta đi vào trong tương quan với chị em cách thiết thực. Mức độ đo lường sự gắn bó yêu thương với cộng đoàn cốt ở chỗ chúng ta sống trọn vẹn các lời khuyên phúc âm. Khi trung thành với lời khấn chúng ta đang tìm cách sống cho cộng đoàn. Sau khi khấn, cộng đoàn là nhà của chúng ta hiểu theo nghĩa thiêng liêng cũng như vật chất. Không  đi tìm tổ ấm khác, không đi tìm sự giàu sang cho mình, không đi tìm ý muốn nơi ai khác ngoài ý muốn của Chúa qua Bề Trên và cộng đoàn. Chúng ta tìm kiếm sống với cộng đoàn cho dù cộng đoàn đó yếu đuối, tội lỗi, bởi vì chúng ta biết rằng cho dù cộng đoàn có thế nào đi nữa, ở đó luôn có Chúa Kitô, Đấng đầy lòng thương xót.
Tóm lai,
Trong giao ước tình yêu, Thiên Chúa luôn đi tìm và sống với chúng ta dù chúng ta yếu đuối và thất tín. Cũng vậy sống giao ước tình yêu này chúng ta sẽ đi tìm kiếm và  sống với Chúa, cho Chúa qua mọi hoàn cảnh, qua các chị em, bất chấp những khó khăn, yếu đuối của chúng ta và của chị em.

V. SỐNG GIAO ƯỚC TÌNH YÊU LÀ SỐNG VỚI
Cốt lõi của tình yêu là sống với. Hai người thương nhau thì muốn sống ăn đời ở kiếp với nhau. Chỉ khi không còn thương nhau nữa thì người ta không còn muốn sống bên nhau nữa. Nếu tình yêu thúc bách Thiên Chúa tự hạ, thì tình yêu cũng thúc bách Thiên Chúa sống với con người, và sống mãi với nó, trong một giao ước vĩnh viễn.
1. Thiên Chúa muốn sống với con người
Do tình yêu Thiên Chúa muốn sống với con người. Ngài muốn sống mãi với nó, chia sẻ vui buồn sướng khổ với nó, để từ đó mang lại cho nó sự an tâm, một sự an tâm đến từ sự hiện diện của Ngài. Lịch sử cứu độ cho thấy Thiên Chúa đến ở với con người, ở với Dân của Ngài, bất chấp những yếu đuối tội lỗi của nó. Ngài ở với mỗi cá nhân và cả một tập thể.
Ngài ở với Abraham: "Thời ấy, vua A-vi-me-léc cùng với ông Pi-khôn, tướng chỉ huy quân đội của vua, đến nói với ông Áp-ra-ham: "Thiên Chúa ở với ông trong tất cả những gì ông làm" (St 21,22)
Ngài ở với Môsê: "Ông Mô-sê thưa với Thiên Chúa: "Con là ai mà dám đến với Pha-ra-ô và đưa con cái Ít-ra-en ra khỏi Ai-cập? " Người phán: "Ta sẽ ở với ngươi." (Xh 3,11-12)
Ngài ở với Đavít. Ông Na-than thưa với vua Đa-vít: "Tất cả những gì ngài ấp ủ trong lòng, xin cứ thực hiện, vì Thiên Chúa ở với ngài." (1 Sb 17, 1)
Ngài ở với các ngôn sứ:" Đừng sợ hãi: có Ta ở với ngươi.." (Is 41,10)
Ngài ở với dân của Ngài: "Bấy giờ, chúng sẽ nhận biết chính Ta là ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của chúng. Ta ở với chúng, còn chúng, nhà Ít-ra-en, chúng là dân của Ta" (Ed 34,30)
Trong cựu ước Thiên Chúa hiện diện với con người qua những dấu hiệu khả giác: Hòm Giao ước: "Vua Sa-un nói với ông A-khi-gia: "Hãy đem Hòm Bia Thiên Chúa lại gần", vì hồi ấy Hòm Bia Thiên Chúa ở với con cái Ít-ra-en" (1Sm 14,18); Ngài ở với con người nơi Lều hội ngộ và Nhà tạm: "Đám mây che phủ Lều Hội Ngộ, và vinh quang ĐỨC CHÚA đầy tràn Nhà Tạm. Ông Mô-sê không thể vào Lều Hội Ngộ vì đám mây đậu trên đó, và vinh quang ĐỨC CHÚA đầy tràn Nhà Tạm;" (Xh 40,34) Ngài ở với con người trong đền thờ:" Tôi nhìn, và này vinh quang ĐỨC CHÚA tràn ngập Đền Thờ ĐỨC CHÚA, và tôi sấp mặt xuống đất" (Ed 44,4)
2. Thiên Chúa muốn sống với con người trong Con Một của Ngài
Thiên Chúa không ở trong trí tưởng tượng, cũng không chỉ ở trong những dấu hiệu khả giác, nhưng Ngài muốn hiện diện đích thực trong một con người, Đức Giêsu Kitô để nhân loại có thể thấy Ngài, chạm được Ngài.
Chúa Giêsu đã đến ở với con người. Thánh Gioan nói:"Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật." (Ga 1,14) Thánh Matthêu thì nói Ngài là Emmanuel (Thiên Chúa ở với chúng ta) (x. Mt 1,23). Sau khi chết và sống lại Chúa sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng và hứa với họ: "Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế." (Mt 28,20) Ngày nay Chúa Giêsu đang ở với chúng ta trong lời của Ngài, trong bí tích Thánh Thể, trong chính chúng ta, trong mỗi anh chị em của mình.
Ngài ở với con người vì Ngài yêu thương nó, Ngài không muốn lìa xa nó. Ngài sung sướng ở với nó. Ngài ký kết giao ước với nó vì Ngài muốn ở với nó. Ngài ở với con người để chia sẻ tất cả những đau khổ của nó. Ngài ở với con người để bảo vệ che chở nó, tha thứ cho nó. Ngài ở với con người để con người không còn sợ hãi, không còn cảm thấy cô đơn, để con người có sức mạnh chống lại sự dữ:"Thầy đây, đừng sợ" (Ga 6,20)
3. Sống với Chúa
Thánh Máccô nói:"Người lên núi và gọi đến với Người những kẻ Người muốn. Và các ông đến với Người. Người lập Nhóm Mười Hai, để các ông ở với Người và để Người sai các ông đi rao giảng với quyền trừ quỷ." (Mc 3,13-15) Chúa gọi các môn đệ để họ ở với Ngài trước tiên: "Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó." (Ga 12,260)
Ngày nay Chúa kêu gọi chúng ta là để chúng ta sống với Ngài trước tiên. Chúng ta vào nhà Dòng và chúng ta khấn không phải để làm chuyện này chuyện nọ, mà là để sống với Chúa Giêsu, Đấng muốn sống với chúng ta. Chúng ta sống với Ngài ngang qua cộng đoàn, các giờ kinh nguyện, các giờ làm việc... Tất cả hoạt động của người tu sĩ hướng về sự hiện diện của Chúa Giêsu. Chính khuynh hướng sống cho Chúa này làm cho đời sống của tu sĩ, lời khấn của họ có giá trị. Người tu sĩ không bao giờ được phép quên mục đích này, nếu không đời sống  của chúng ta sẽ trở nên vô nghĩa, sẽ bất an và sẽ gây bất an cho cộng đoàn. 
Cũng như chỉ vì tình yêu mà Chúa Giêsu thích sống với chúng ta bất chấp chúng ta yếu đuối, nghèo hèn và tội lỗi, thì cũng vậy vì tình yêu Chúa mà chúng ta tìm cách sống với Ngài, thích sống với Ngài. Vì tình yêu mà Chúa đã ký kết giao ước với chúng ta thì cũng vì tình yêu chúng ta khấn, chúng ta ký kết giao ước để ở với Chúa, bất chấp khó khăn và thử thách. Tôi khấn không phải để sống với những thực tại trần thế: của cải, chức quyền, học hành, nhưng để sống với Chúa, cho Chúa. Qua lời khấn vĩnh viễn chúng ta muốn nói với Chúa rằng chúng ta muốn sống "ăn đời ở kiếp" với Ngài, không bao giờ lìa xa Ngài.
Sau khi khấn mọi sự sẽ được nhìn trong sự hiện diện của Chúa. Từ đây, chúng ta sẽ không nói và hành động bất cứ cái gì mà trong đó không có sự hiện diện của Chúa. Tất cả đời sống của người tu sĩ hướng về sự hiện diện của Chúa.  Họ nói như thánh Phaolô: "ở giữa anh em, tôi đã không muốn biết đến chuyện gì khác ngoài Đức Giê-su Ki-tô, mà là Đức Giê-su Ki-tô chịu đóng đinh vào thập giá" (1Cr 2,2). Khi chúng ta không thích sống với Chúa nữa thì dù cuộc đời của chúng ta có thành công, chúng ta vẫn sống trong sự bất an, buồn chán. Trái lại sống với Chúa sẽ mang lại cho cuộc đời chúng ta sự bình an. Thánh Agustinô nói:"Mỗi khi con gắn bó hết mình với Chúa, con sẽ không còn cảm thấy đau đớn vất vả nữa. Cuộc đời con sẽ trở nên sống động, vì được tràn đầy Chúa" (Tự Thuật) Vì vậy Chúa Giêsu bảo các môn đệ của Ngài, trong đó có chúng ta: "Hãy ở lại trong Thầy như Thầy ở lại trong anh em. Cũng như cành nho không thể tự mình sinh hoa trái, nếu không gắn liền với cây nho, anh em cũng thế, nếu không ở lại trong Thầy" (Ga15,4) Người tu sĩ không sống tương quan với Chúa sẽ trở nên héo tàn, nhạt nhẽo và buồn thảm, không làm chứng gì cho thế gian được cả.
Thế nhưng chúng ta có nguy cơ chạy theo vật chất mà quên lãng chuyện này. Mặc dù chúng ta khấn khó nghèo để hoàn toàn sống với Chúa, chúng ta có nguy cơ lấy lại và thích sống với của cải hơn. Chúng ta khấn từ bỏ ý riêng để sống theo ý Chúa, nhưng chúng ta lại sống theo ý mình. Chúng ta khấn sống dành tình yêu cho mỗi mình Chúa, nhưng chúng ta có nguy cơ đi tìm bù đắp nơi một tình cảm nào đó. Thánh Augustinô có kinh nghiệm về chuyện này:"Con yêu Chúa quá muộn, lạy Chúa là vẻ đẹp vừa rất xưa vừa mới mãi, con yêu Chúa quá muộn ! Này Chúa vẫn ở trong con, mà hồi ấy con cứ ở ngoài và tìm Chúa bên ngoài ! Con thật xấu khi mãi chạy theo vẻ  đẹp nơi các thụ tạo của Chúa. Chúa từng ở với con mà con chẳng ở với Chúa. Những sự vật vẫn giữ con xa Chúa, nếu chúng không ở trong Chúa thì chúng làm sao hiện hữu được ?" (Tự Thuật)
4. Sống với cộng đoàn
Sống với Thiên Chúa, với Chúa Giêsu không có nghĩa là tách xa cộng đoàn, trái lại càng gắn bó với cộng đoàn hơn. Khi chúng ta khấn, chúng ta khấn trong tay bề trên, trước mặt bề trên và cộng đoàn. Điều đó có nghĩa là chúng ta sẽ sống giao ước của chúng ta với Chúa trong cộng đoàn. Tìm cách sống với Chúa cũng có nghĩa là tìm cách sống với chị em. Xa lìa chị em cũng có nghĩa là xa lìa Chúa. Chúa Giêsu hiện diện cách đích thực và cụ thể nơi chị em của mình. Chúa Giêsu nói:"Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy." (Mt 25,40)
Đã hẳn có những khó khăn xảy ra trong tương quan chị em với nhau do yếu đuối của mỗi người, nhưng chúng ta không bao giờ có thể phủ nhận rằng chúng ta rất cần chị em của mình, không bao giờ phủ nhận rằng mỗi chị là hiện  thân đích thực của Chúa Kitô giữa chúng ta. Như vậy để có thể thấy được Chúa Kitô nơi người chị em mình, cần sống đức tin và lòng mến. Chỉ có có đức tin và lòng mến mới có thể giúp người tu sĩ thấy được Chúa Kitô nơi chị em mình. Và như vậy chị em giúp chúng ta sống đức tin một cách mãnh liệt hơn. Mỗi người sẽ tạ ơn chị em vì nhờ chị em mà đức tin chúng ta mạnh lên. Chị em càng khó ưa bao nhiêu lại trở thành thầy dạy đức tin cho chúng ta bấy nhiêu, bởi vì lúc đó chỉ có đức tin mới giúp chúng ta nhảy qua những yếu đuối bên ngoài, những cảm tính tự nhiên để chỉ còn lại đức tin, một đức tin được tôi luyện bằng sự khác biệt và hạn chế của chị em mình.
Lời khấn trinh khiết giúp chúng ta yêu mến Chúa và gắn bó với Ngài, đồng thời cũng giúp ta sống yêu mến chị em và gắn bó với chị em, không đi tìm một tình cảm nào khác. Từ đây sau khi khấn chúng ta thuộc về cộng đoàn, thuộc về chị em, chúng ta sẽ sống chết với chị em, chấp nhận yếu đuối xác hồn của chị em, cũng như chị em chấp nhận yếu đuối của chúng ta. Khi chúng ta khấn cộng đoàn trở thành gia đình thật của chúng ta, cả về đức tin lẫn thể chất. Chúng ta góp phần xây dựng chứ không tìm cách phá đỗ, trong đó mỗi người sẽ sống hết mình với cộng đoàn. Từ đây chúng ta sống trong chứ không còn sống ngoài cộng đoàn, chia vui sẻ buồn với cộng đoàn. Khi chúng ta khấn khó nghèo, một đàng chúng ta muốn bắt chước Chúa Giêsu sống giống anh em mình mọi đàng, đàng khác chúng ta muốn lăn lộn với cộng đoàn. Chúng ta khấn vâng phục để sống theo thánh ý Chúa qua bề trên và chị em. Như vậy lời khấn vâng phục làm cho chúng ta sống vâng phục không chỉ với bề trên mà còn với nhau nữa. Chúng ta không sống với một ai nhưng là sống với Chúa và cộng đoàn. Chúng ta xử sự với nhau như thánh Phaolô dạy:"Anh em đừng bao giờ thốt ra những lời độc địa, nhưng nếu cần, hãy nói những lời tốt đẹp, để xây dựng và làm ích cho người nghe. Anh em chớ làm phiền lòng Thánh Thần của Thiên Chúa, vì chính Người là dấu ấn ghi trên anh em, để chờ ngày cứu chuộc.Đừng bao giờ chua cay gắt gỏng, nóng nảy giận hờn, hay la lối thoá mạ, và hãy loại trừ mọi hành vi gian ác." (Ep 4.29,31)
Tóm lại,
Chúa yêu chúng ta và muốn ở với chúng ta. Nếu chúng ta yêu Ngài chúng ta cũng sẽ tìm mọi cách để sống với Ngài qua các bí tích và qua chị em mình. Mỗi người tự hỏi: ngày tôi khấn tôi có thật lòng yêu mến Chúa không? Tôi có thật lòng yêu mến chị em không? Nhưng để sống với Chúa chúng ta phải lắng nghe Ngài.  
VI. SỐNG GIAO ƯỚC TÌNH YÊU LÀ SỐNG LẮNG NGHE
Khi người ta thương nhau người ta sẽ lắng nghe nhau, thích nghe nhau. Thiên Chúa yêu con người vì thế Ngài thích lắng nghe con người. Nếu chúng ta yêu mến Chúa, chúng ta cũng sẽ thích lắng nghe Ngài. Giao ước tình yêu là giao ước trong đó Thiên Chúa và con người lắng nghe nhau.
1. Thiên Chúa lắng nghe con người.
Thiên Chúa lắng nghe con người bằng trái tim. Ngài thích nghe con người vì Ngài yêu nó: "Nào, cho anh thấy mặt, nào, cho anh nghe tiếng, vì tiếng em ngọt ngào và mặt em duyên dáng." (Dc 2,14) Ngài Nghe tiếng con người bằng trái tim chứ không phải bằng lỗ tai, bằng tình thương sâu thẳm, chứ không phải bằng tình yêu hời hợt. Ngài nghe từ chỗ sâu thẳm nơi con tim của con người, vì Ngài dò thấu những gì sâu thẳm nơi đó. Ngài nghe với lỗ tai của trái tim, Ngài nghe với trái tim thổn thức và bồi hồi: "Trái tim Ta thổn thức, ruột gan Ta bồi hồi." (Hs 11,8) Bởi vì Ngài nghe bằng trái tim nên Ngài nghe rõ mồn một, nghe từng hơi thở và chỉ nghe những gì tốt lành mà thôi. Tình yêu không cho phép Ngài nghe những gì xấu xa.  Ngài biết cái xấu, nhưng cái xấu không bao giờ có trong trái tim Ngài. Ngài biết tội con người nhưng nó không có trong trái tim Ngài, vì vậy khi nghĩ về con người Ngài chỉ nhìn cái tốt đẹp nơi con người, còn cái xấu nơi nó Ngài sẽ tìm cách đẩy nó ra khỏi đối tượng yêu thương của Ngài. Tình yêu làm cho Ngài "mù", làm cho Ngài "điếc" trước tội của con người. Khi ký kết giao ước với nó Ngài muốn nói với con người rằng Ngài yêu nó và Ngài chỉ thích nghe những gì tốt lành nơi nó mà thôi.
Bên cạnh việc lắng nghe những điều tốt lành nơi con người, Ngài vì tình yêu chỉ nghe những khốn quẩn của con người, của mỗi cá nhân cũng như của tập thể. Chúa nghe tiếng kêu của ông Abraham cầu xin cho Sôđôma và Gômôra (St 18,16-32), Ngài nghe tiếng kêu của bà Ette (Et 4,17) Chúa nghe tiếng kêu của bà Anna, mẹ Samuel (1Sm1,9-20); Chúa nghe tiếng  kêu của dân Israel: "Ta đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai-cập, Ta đã nghe tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ." (Xh 3,7) Không có một nỗi khốn quẩn nào của con người mà Ngài lại không nghe. Ngài nghe từ khi con người còn trong bụng me:"Trước khi cho ngươi thành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi; trước khi ngươi lọt lòng mẹ, Ta đã thánh hoá ngươi." (Gr1,5)
Thiên Chúa lắng nghe con người trong thinh lặng. Thiên Chúa là Đấng khiêm nhường và bình an, Ngài chỉ muốn lắng nghe con người trong thinh lặng và bình an. Tình yêu là lắng nghe nhau trong thinh lặng. Ngài không ở trong động đất, Ngài không ở trong lửa, Ngài không ở trong bão táp, nhưng Ngài ở trong ngọn gió hiu hiu (1V19,11-12) Vì tình yêu Ngài chỉ thích nghe trong thinh lặng vì Ngài muốn nghe rõ tất cả những tiếng kêu cũng như tiếng thì thầm rên rỉ của con người.
2. Thiên Chúa lắng nghe trong Con Một Ngài
Trong Đức Giêsu, Con Một của Mình, Thiên Chúa lắng nghe tiếng kêu của con người cách thiết thực và cụ thể. Với tư cách là Thiên Chúa, Chúa Giêsu lắng nghe tiếng kêu của người phụ nữ Canaan kêu xin cho con gái mình bị quỷ ám:"Lạy Ngài là con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi! Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm!" (Mt 15,22);  tiếng kêu của 2 người mù: "Lạy Con Vua Đa-vít, xin thương xót chúng tôi!" (Mt9,27); tiếng kêu của người bị phong hủi, của người bị bại liệt, và biết bao con người khác....Có tiếng kêu của cá nhân cũng có tiếng kêu của tập thể.
Ngày nay trong Con Một, Ngài đang lắng nghe mỗi người chúng ta. Ngài nghe chúng ta với trái tim đầy lòng xót thương và rung động, Ngài nghe với trái tim thổn thức và bồi hồi, với trái tim của một người Cha đầy lòng xót thương và nhân hậu,  của một người mẹ nghe từng nhịp đập, từng hơi thở của con mình; Ngài nghe từ khi chúng ta tượng hình trong lòng mẹ. Trong thinh lặng Ngài đang nghe những tiếng kêu của chúng ta.
Vì Thiên Chúa nghe trong thinh lặng , nên nhiều lúc chúng ta tưởng như Ngài không nghe chúng ta kêu. Nhưng thật ra Ngài không bỏ qua bất cư tiếng kêu nào nơi chúng ta, nhưng Ngài đáp theo cách mà có lẽ chúng ta không biết. Ngày ký kết giao ước với chúng ta, Ngài muốn lắng nghe chúng ta mãi mãi. Trong Giao Ước tình yêu Ngài sẽ "đồng lao cộng khổ" với chúng ta, và ngang qua chúng ta Ngài muốn nghe tiếng kêu van của bao con người.
3. Tiếng kêu van của Chúa Giêsu
Với tư cách là con người, trên thập giá Chúa Giêsu đã kêu: "Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con? "(Mt 24,46) Ngài đã kêu xin sự tha thứ: "Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm."(Lc 23,34) và cuối  cùng "Đức Giê-su lại kêu một tiếng lớn, rồi trút linh hồn." (Mt 27,50) Ngày hôm nay Chúa Giêsu đang từng giây từng phút kêu lên trong chúng ta. Trong cảnh cô đơn khốn quẩn thất vọng của chúng ta, của anh em chúng ta có tiếng kêu của Chúa Kitô được lòng vào. Chúa Kitô cùng với Thần Khí của Ngài đang đêm ngày "cầu thay nguyện giúp chúng ta, bằng những tiếng rên siết khôn tả." (Rm 8,27) Bên cạnh yếu đuối tội lỗi của chúng ta, có tiếng kêu xin tha thứ của Chúa Kitô lên với Cha của Ngài thay cho chúng ta. Và cuối cùng trong hơi thở tàn, hơi thở của chúng ta nhập vào hơi thở của Chúa Kitô để kêu lên một tiếng lớn trước khi trút hơi thở sau cùng.
4. Chúng ta lắng nghe Thiên Chúa
Nếu Thiên Chúa lắng nghe chúng ta bằng trái tim, bằng tình yêu thì chúng ta cũng phải nghe Ngài bằng tình yêu. Tai bình thường không thể nghe được. Chỉ có tai lòng mới có thể nghe được. Chỉ có tình thương mới có thể gặp tình thương mà thôi. Thiên Chúa nói từ trái tim của Ngài, chỉ những ai có trái tim mới có thể nghe được Ngài. Như vậy để có thể lắng nghe Ngài chúng ta cần có con tim yêu mến, con tim mới, con tim bằng thịt. Nhưng làm sao chúng ta có được? Chỉ có Chúa mới có thể cho chúng ta con tim mới này: "Ta sẽ ban tặng các ngươi một quả tim mới, sẽ đặt thần khí mới vào lòng các ngươi. Ta sẽ bỏ đi quả tim bằng đá khỏi thân mình các ngươi và sẽ ban tặng các ngươi một quả tim bằng thịt." (Ed 36,26) Chúng ta chỉ có trái tim mới này khi chúng ta "mặc lấy Chúa Giêsu Kitô" (Rm13,14), khi chúng ta "mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa." (Ep 4,24) Ngày khấn là ngày chúng ta bước vào giao ước mới và vĩnh viễn, trong đó chúng ta có được con tim mới, con tim tình yêu, con tim của Chúa Kitô để có thể lắng nghe tiếng Thiên Chúa.
Khi khấn vâng phục, người tu sĩ muốn lắng nghe tiếng Thiên Chúa, lắng nghe thánh ý Ngài để rồi đem ra thực hành. Khi khấn trinh khiết họ muốn dành tình yêu cho Chúa và để lắng nghe tiếng nói bằng trái tim tình yêu. Khi khấn khó nghèo họ muốn trở nên nghèo, trở nên trống rổng để chỉ còn nghe tiếng Chúa mà thôi.
Nhưng để có thể nghe được tiếng Chúa, chúng ta cần thinh lặng. Thiên Chúa thích nói và thích nghe trong thinh lặng. Có thinh lặng bên ngoài, nhưng cũng có thinh lặng bên trong. Sự thinh lặng cần thiết cho những ai muốn lắng nghe tiếng Thiên Chúa bằng trái tim, bằng tình yêu. Trong thinh lặng người tu sĩ sẽ nghe và suy đi nghĩ lại lời của Thiên Chúa giống Mẹ Maria.
5. Lắng nghe tiếng kêu của Chúa Giêsu
Có tiếng của Thiên Chúa và cũng có tiếng của Chúa Giêsu nơi thâm tâm mỗi người chúng ta, Chúa Giêsu cùng với Thần Khí của Ngài đang kêu lên trong chúng ta. Trở về với lòng mình để nghe tiếng kêu đó, đồng thời nhập vào tiếng kêu đó của Ngài để cùng với Ngài kêu lên. Và chính Ngài cũng đang kêu lên nơi anh chị em chúng ta. Chúa Kitô đang không ngừng kêu lên trong cảnh khốn cùng của anh chị em chúng ta.
Khi chúng ta khấn chúng ta muốn đi vào trong tiếng kêu đó của Chúa Kitô,  để cùng với Chúa kêu van lên với Cha của Ngài. Giữa vực thẳm khốn cùng và vực thẳm tình yêu thương xót của Thiên Chúa, có tiếng kêu của Chúa Kitô và của người tu sĩ. Chúng ta có nhiệm vụ lắng nghe tiếng Chúa và kêu van thay cho anh em chúng ta.
6. Lắng nghe tiếng kêu của anh chị em mình
Trước tiên, sống giao ước tình yêu là lắng nghe tiếng nói của chị em trong cộng đoàn. Chúng ta chỉ có thể lắng nghe chị em khi chúng ta thực sự yêu mến chị em. Cũng như không có tình yêu không thể lắng nghe Thiên Chúa làm sao, thì cũng vậy không thể lắng nghe tiếng của chị em nếu như chúng ta không có tình yêu với chị em. Những lo lắng băn khoăn của chị em phải trở thành băn khoăn của chúng ta. Chỉ khi nào"vui với người vui, khóc với người khóc" (Rm12,15) lúc đó chúng ta mới có thể lắng nghe chị em của chúng ta cách đích.
Chúng ta lắng nghe những chị em thực sự khi chúng ta lắng nghe những gì tốt lành mà thôi. Giao ước tình yêu chỉ cho phép chúng ta nghe những gì tốt về chị em, mặc dù chúng ta biết có những yếu đuối của chị em. Vì Thiên Chúa yêu chúng ta và chỉ nghĩ đến những điều tốt nơi chúng ta mà thôi thì chúng ta cũng vậy, chúng ta vì yêu mến cũng chỉ nghe những gì tốt nơi chị em mà thôi. Điều này giả thiết loại trừ những lời nói xấu ra khỏi tương quan được xây dựng trong giao ước tình yêu.
Sống với chị em, nghe tiếng chị em, điều đó không có nghĩa là chúng ta không cần lắng nghe tiếng kêu của anh chị em bên ngoài. Chúng ta có nhiệm vụ đêm ngày lắng nghe tiếng kêu của anh chị em đang đau khổ và tội lỗi bên ngoài, để cùng với Chúa Kitô kêu van lòng thương xót của Thiên Chúa. Người tu sĩ không được dửng dưng trước tiếng kêu của anh chị em mình. khi chúng ta khấn chúng ta muốn nói lên rằng chúng ta sẽ trở thành lỗ tai cho anh em mình để lắng nghe thay cho anh chị em, đồng thời làm 'cái miệng' để kêu van cho anh em mình.  
Tóm lai,
Thiên Chúa yêu thương chúng ta, vì thế Ngài thích lắng nghe chúng ta bằng trái tim của Ngài. Ngài đã lắng nghe chúng ta trong thâm tâm mỗi người chúng ta, Ngài lắng nghe chúng ta trong mọi biến cố, nhất là Ngài lắng nghe chúng ta trong Con Một của Ngài. Chúng ta đáp lại bằng cách yêu thích lắng nghe tiếng Chúa trong thinh lặng qua mọi biến cố, qua chị em, qua những người đau khổ và nghèo nàn, bệnh tật. Nhưng sự lắng nghe nhau chỉ có thể có khi có sự hiệp nhất.
VII. SỐNG GIAO ƯỚC TÌNH YÊU LÀ SỐNG HIỆP NHẤT
Khi người ta thương nhau, người ta chẳng những muốn theo nhau, thấy nhau, lắng nghe nhau, ở gần nhau, mà còn muốn nên một với nhau. Tột đỉnh của tình yêu là nên một với nhau. Thiên Chúa là tình yêu, một tình yêu trên tất cả tình yêu, vì thế Ngài chẳng những muốn khiêm nhường, sống với nó, đi theo nó,  tìm kiếm nó, lắng nghe nó, mà Ngài còn muốn nên một với nó trong Con Một của Ngài. Con người đáp lại tình yêu của Ngài cũng muốn nên một với Ngài và nên một với anh em.
1. Ý chí thông hiệp của Thiên Chúa
Sách Sáng Thế tường thuật rằng khi Thiên Chúa sáng tạo con người, Ngài phán: "Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta, để con người làm bá chủ cá biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất." (St 1,27) Chỗ khác thì nói: "Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật." (St 2,7) Hai bản văn thuộc hai truyền thống khác nhau, nhưng lại bổ túc cho nhau để nói lên ý chí hiệp thông nơi Thiên Chúa. Thiên Chúa muốn sáng tạo con người theo hình ảnh của Ngài, và truyền cho con người hơi thở là Thần Khí của Ngài. Như vậy ngay từ đầu Thiên Chúa muốn truyền cho con người cái gì là của Ngài, vì Ngài muốn nó nên một với Ngài, giống như Ngài. Khuôn mặt và Hơi thở phải chăng là hình ảnh cho Chúa Kitô và Thần Khí sau này.
Trước khi con người phạm tội, mỗi người là khuôn mặt thật hoàn toàn giống  Thiên Chúa, không bị méo mó, và hơi thở của chúng ta hoàn toàn là hơi thở của Ngài. Sau khi phạm tội khuôn mặt của con người, hình ảnh của nó bị méo mó, hơi thở của nó đã bị ô nhiễm bởi vì do tội nó đã chạy xa Thiên Chúa. Càng chạy xa Thiên Chúa bao nhiêu con người càng trở nên dị hình dị dạng, hơi thở trở nên hổn hễn, mệt mỏi và bất an bấy nhiêu. 
 Với tình yêu vĩnh cửu và với ý chí thông hiệp của Ngài, Thiên Chúa sẽ thực hiện kế hoạch của Ngài là làm sao con người nên một với Con Một Ngài và có hơi thở Thần Khí của Ngài.  Ngài hứa sẽ gởi Đấng Mêsia, là Tôi Trung đến để mang ơn cứu độ cho muôn dân (Is 49,6) và Ngài hứa sẽ ký kết giao ước với con người trong đó Thần Khí được đặt vào lòng con người(Ed 36,27).  Thánh Phaolô đã ca ngợi ý chí thông hiệp này: "Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta. Trong Đức Ki-tô, từ cõi trời, Người đã thi ân giáng phúc cho ta hưởng muôn vàn ơn phúc của Thánh Thần." ( Ep 1,3)
2. Chúa Kitô đến thực hiện ý chí thông hiệp của Cha
Để thực hiện ý chí thông hiệp này Thiên Chúa làm chuyện điên rồ: "Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta." (Rm 8,32) Chúa Giêsu đến thực hiện ý muốn này giữa trần gian. Ngài đã sống như con người, trải qua yếu hèn thử thách như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi: "Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội." (Dt 4,15) Sau cùng để cho chúng ta được nên một với Ngài và Thần Khí được trút xuống trên chúng ta Ngài sẽ phải chết như Ngài đã báo trước.
Để chúng ta có thể sống trong Ngài và Ngài sống trong chúng ta, Ngài phải nộp mình: "Đây là mình Thầy, hiến tế vì anh em."(Lc 22,19) Để Chúa Thánh Thần được ban xuống trái tim con người, trái tim Ngài phải bị đâm thâu: "một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Người. Tức thì, máu cùng nước chảy ra." (Ga 19,34) Máu tượng trưng cho sự hy sinh của Chúa Kitô, Nước tượng trưng cho Chúa Thánh Thần.
Nếu Ngài không không hy sinh mạng sống, Thần Khí không được ban xuống. Thánh Gioan nói: "Ai khát, hãy đến với tôi, ai tin vào tôi, hãy đến mà uống! Như Kinh Thánh đã nói: Từ lòng Người, sẽ tuôn chảy những dòng nước hằng sống." Đức Giê-su muốn nói về Thần Khí mà những kẻ tin vào Người sẽ lãnh nhận. Thật thế, bấy giờ họ chưa nhận được Thần Khí, vì Đức Giê-su chưa được tôn vinh." (Ga 7, 38-39) Chỉ sau khi chết và phục sinh, khi hiện ra với các môn đệ,  Chúa Giêsu thổi hơi Thần Khí trên các ông. Để thiết lập giao ước mới và vĩnh cửu trong đó chúng ta được nên một với Chúa Giêsu, Ngài phải đổ máu mình ra:"Chén này là giao ước mới, lập bằng máu Thầy, máu đổ ra vì anh em." (Lc 22,20)
Trên thập giá Chúa Giêsu nói: "Mọi sự đã hoàn tất" Mọi sự hoàn tất khi chúng ta và Chúa Giêsu nên một với nhau, khi Chúa Giêsu gục đầu trút hơi thở và trao ban Thần Khí (Ga 19,30). Vào giây phút này, ý chí thông hiệp của Thiên Chúa, giao ước thông hiệp được thực hiện trọn vẹn, trong đó Thiên Chúa và chúng ta nên một với nhau trong Con Một của Ngài và hơi thở Thần Khí được truyền cho  chúng ta,  trong đó khuôn mặt của Chúa kitô trở thành khuôn mặt của chúng ta, nói cách khác mỗi người chúng ta vẫn là chúng ta, nhưng trong khuôn mặt chúng ta có khuôn mặt Chúa Kitô, hơi thở chúng ta vẫn là hơi thở bình thương, nhưng trong đó có hơi thở Thần Khí Chúa Kitô. Trên thập giá mỗi người chúng ta hoàn toàn nên một với Thiên Chúa trong Chúa Giêsu Kitô. Tình yêu của Thiên Chúa được thỏa mãn, nếu có thể nói như thế, khi Thiên Chúa làm cho chúng ta nên một với Ngài, khi không còn ngăn cách giữa chúng ta và Ngài.
Trong ngày chúng ta khấn Thiên Chúa đến dẫn chúng ta vào trong giao ước với Ngài;  trong giây phút tuyên thệ Ngài và chúng ta hoàn toàn nên một, và kể từ đó Ngài sẽ trung thành với chúng ta để giữ cho sự hiệp nhất giữa Ngài với chúng ta luôn luôn bền chặt. Nếu chúng ta thất tín, chạy xa Ngài,  Ngài sẽ đi kiếm chúng ta về.
3. Sống Nên một với Thiên Chúa trong Chúa Giêsu
Thánh Phaolô thì nói: "Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi. Hiện nay tôi sống kiếp phàm nhân trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi" (Gl 2,20) Ngày chúng ta khấn là ngày chúng ta đi vào trong giao ước tình yêu trong  đó mỗi người chúng ta nên một với Chúa cách hoàn hảo, chúng ta vẫn sống, vẫn sinh hoạt, vẫn làm việc, nhưng chúng ta làm việc với khuôn mặt mới, khuôn mặt của Chúa Kitô; với thần khí mới, Thần Khí của Chúa Kitô. Nếu chúng sống trong sự kết hợp với Ngài thì chúng ta có khuôn mặt thật, khuôn mặt của Chúa Kitô, khi đó dù bên ngoài nó có xấu nó vẫn đẹp, đẹp vì đó là khuôn mặt của Chúa Kitô, của Thiên Chúa, khuôn mặt của sự sống, của niềm vui, của sự bình an. Nó có thần sắc, là Thần Khí  của Chúa. Ngược lại nếu không sống kết hợp với Chúa, thì dù khuôn mặt có đẹp thì đó cũng chỉ là khuôn mặt giả mà thôi, khuôn mặt không có niềm vui và sức sống thật, không có thần sắc, đó chỉ là khuôn mặt của tiền tài danh vọng, của ích kỷ nhỏ nhen thôi.
Vì thế để có khuôn mặt Chúa Kitô và Thần Khí của Ngài, ngày khấn, qua ba lời khuyên phúc âm vâng phục, khó nghèo và trinh khiết, chúng ta muốn đi vào trong mầu nhiệm Thập giá của Chúa Kitô để chết đi với tội lỗi và sống cho Thiên Chúa (Rm6,10); chết đi đối với con người cũ để sống theo con người mới; chết đi với sự bất tuân để sống hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa; chết đi với những ham hố của cải để chỉ còn lại Chúa là kho tàng duy nhất; chết đi đối với những tình cảm xác thịt để chỉ yêu một mình Chúa. Khi khấn chúng ta thề hứa với Chúa là sẽ sống theo Thần Khí của Chúa chứ không phải theo tinh thần thế gian.
Khi khấn chúng ta chấp nhận mất tất cả để được một mình Ngài, được kết hợp với Ngài, và nói như thánh Inhaxiô Antiôkia, để "được ăn bánh Thiên Chúa, đó chính là thịt Đức Giêsu Kitô, Đấng đã sinh ra trong dòng tộc vua Đavít, muốn được uống máu Đức Giêsu Kitô, Đấng là chính tình yêu chẳng hư hao bao giờ."  Điều đó có nghĩa là chúng muốn hoàn toàn nên một với Ngài, và không để bất cứ thứ gì "tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta." (Rm8,39) Khổ cực, thử thách không làm cho chúng ta nản chí, không làm cho chúng ta phản bội. Khi khấn chúng ta chấp nhận thí tất cả để được Hơi Thở Thần Khí của Thiên Chúa.
4. Sống nên một với chị em trong Chúa Kitô
Sống với Chúa một cách thâm sâu, mỗi người sẽ mang lấy khuôn mặt của Đức Kitô để sống với chị em của mình. Chúng ta tuy nhác nhau, nhưng như thánh Phaolô nói, chúng ta cùng thuộc về một thân thể và có cùng một Thần Khí: "Thật vậy, ví như thân thể người ta chỉ là một, nhưng lại có nhiều bộ phận, mà các bộ phận của thân thể tuy nhiều, nhưng vẫn là một thân thể, thì Đức Ki-tô cũng vậy. Thật thế, tất cả chúng ta, dầu là Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể. Tất cả chúng ta đã được đầy tràn một Thần Khí duy nhất." (1Cr 12,12-13) Mỗi người chị em phải mang khuôn mặt nhân hậu, khiêm nhu của Chúa Kitô và Thần Khí yêu thương đến với chị em. Chúng ta không mang khuôn mặt của bất kỳ ai, khuôn mặt của thế gian, của ghen tương, ích kỷ, tình cảm riêng tư.... mà là khuôn mặt thật của Đức Kitô, một khuôn mặt đúng như Thiên Chúa muốn.
Bên cạnh đó khi chúng ta đến với chị em, chúng ta đến với Chúa Kitô và phải thấy mỗi chị em là Chúa Kitô. Có thể khuôn mặt đó xấu, nhưng là khuôn mặt của Chúa Kitô mà chúng ta đang tìm kiếm. Chỉ khi đó chúng ta mới có thể sống hiệp nhất với nhau, chỉ khi đó chúng ta mới xử khoan dung nhân hậu với nhau. Thánh Phaolô khuyên: "Tôi khuyên nhủ anh em hãy sống cho xứng với ơn kêu gọi mà Thiên Chúa đã ban cho anh em. Anh em hãy ăn ở thật khiêm tốn, hiền từ và nhẫn nại; hãy lấy tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau. Anh em hãy thiết tha duy trì sự hiệp nhất mà Thần Khí đem lại, bằng cách ăn ở thuận hoà gắn bó với nhau. Chỉ có một thân thể, một Thần Khí, cũng như anh em đã được kêu gọi để chia sẻ cùng một niềm hy vọng. Chỉ có một Chúa, một niềm tin, một phép rửa. Chỉ có một Thiên Chúa, Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người, qua mọi người và trong mọi người." (Ep4,1-6) Chúng ta được kêu gọi để sống hiệp nhất yêu thương nhau trong cùng một Khuôn Mặt và một Thần Khí.
Ngày chúng ta khấn là ngày mà chúng ta ký kết giao ước sống với khuôn mặt của Chúa qua chị em trong cộng đoàn; ngày mà chúng ta muốn có cùng khuôn mặt với chị em và cùng thở hơi thở Thần Khí với chị em. Giao ước tình yêu làm cho chúng gắn kết với Chúa và với cộng đoàn, hiệp nhất với Chúa và hiệp nhất với cộng đoàn. Cộng đoàn là hình ảnh đích thực và cụ thể của Chúa Kitô. Mặc dù đôi khi vì yếu đuối nơi chị em và cũng vì yếu đuối nơi chúng ta nên chúng ta không nhận ra Ngài nơi chị em. Nhưng phần lớn là tại vì chúng ta chưa có tâm hồn trong sạch. Như vậy để có thể thấy Chúa nơi chị em, chúng ta phải thanh tẩy lòng chúng ta trước, phải lấy cài đà ra khỏi mắt chúng ta, và sống theo hơi thở Thần Khí Chúa, đừng sống theo hơi thở thối tha của thế gian đã bị ô nhiễm: "Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa." (Mt5,8)
Khi tôi khấn vâng phục tôi muốn đi vào trong sự hiệp nhất với cộng đoàn có ý Chúa làm trung tâm; chúng ta khấn khó nghèo để không còn phân biệt giữa giàu nghèo. Khi khấn trinh khiết chúng ta đi vào trong sự hiệp nhất của cộng đoàn trong tình yêu.
Tóm lại,
Thiên Chúa yêu chúng ta và Ngài muốn hiệp nhất với chúng ta. Ngài đã tạo dựng chúng ta giống hình ảnh Ngài và truyền vào chúng ta hơi thở của Ngài. Sau khi con người phạm tội Thiên Chúa cứu chuộc  bằng cách sai Con Ngài đến để qua cái chết và phục sinh của Con Một, Thiên Chúa cho chúng ta nên một với Chúa Kitô, Con Một Ngài và truyền cho chúng ta Thần Khí của Ngài. Trong Chúa Kitô và trong Thần Khí chúng ta thực sự nên một với Chúa. Giờ đây chúng ta muốn sống trọn vẹn sự hiệp nhất này qua ba lời khấn. Để nói lên khao khát này người tu sĩ sẽ trung thành với  Thiên Chúa và với cộng đoàn. 

VIII. SỐNG GIAO ƯỚC TÌNH YÊU LÀ SỐNG TRUNG THÀNH
"Đây là lời đáng tin cậy:
Nếu ta cùng chết với Người,
ta sẽ cùng sống với Người.

Nếu ta kiên tâm chịu đựng,
ta sẽ cùng hiển trị với Người.
Nếu ta chối bỏ Người, Người cũng sẽ chối bỏ ta.

Nếu ta không trung tín,
Người vẫn một lòng trung tín,
vì Người không thể nào chối bỏ chính mình
." (2Tm21-13)
Một yếu tố thiết yếu trong tình yêu chính là lòng trung thành. Sẽ không có tình yêu nếu như không có sự trung thành. Đây là sự trung thành của tình yêu chứ không phải vì bất cứ một lý do nào. Càng yêu bao nhiêu người ta càng trung thành bấy nhiêu, một sự trung thành vô vị lợi. Tình yêu và lòng trung thành luôn đi đôi với nhau. Thiên Chúa luôn yêu thương chúng ta, chính vì thế Ngài luôn trung thành. Ngài trung thành với những gì Ngài ký kết với chúng ta. Khi khấn chúng ta từ thâm tâm phải nói với lòng mình rằng chúng ta sẽ trung thành với Chúa cho đến chết.
1. Thiên Chúa là Đấng thành tín và yêu thương.
Kinh Thánh, nhất là thánh vịnh, không ngừng lập đi lập lại thành ngữ: thành tín và yêu thương để nói lên bản tính Thiên Chúa.
Thiên Chúa là Đấng thành tính và yêu thương: "Đức công chính của Ngài, con chẳng giữ riêng lòng mình biết; nhưng con đã nói lên đức trung tín và ơn cứu độ của Ngài, chẳng giấu giếm chi cùng đại hội rằng Ngài thành tín và yêu thương" (Tv 4,11)
Tình thương và lòng thành tín này là vĩnh cửu và từ trời tồn tại mãi mãi và không ai có thể dò thấu được: "Tình thương ấy được xây dựng tới thiên thu, lòng thành tín Chúa được thiết lập trên trời." (Tv 89,3) và "tình thương Ngài cao ngất trời xanh, lòng thành tín vượt ngàn mây biếc." (Tv 36,6)
Với tình thương Thiên Chúa Ký kết giao ước với Israel và  lòng trung thành với giao ước đó: "Anh (em) phải biết rằng ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), thật là Thiên Chúa, là Thiên Chúa trung thành: cho đến muôn ngàn thế hệ, Người vẫn giữ giao ước và tình thương đối với những ai yêu mến Người và giữ các mệnh lệnh của Người." (Dnl 7,9) Thiên Chúa chỉ dùng yêu thương và thành tín để xử với con người: "Tất cả đường lối CHÚA đều là yêu thương và thành tín." (Tv25,10) Chính tình thương và lòng trung tín của Chúa là điểm tựa nâng đỡ chúng ta: "Lòng thành tín và yêu thương của Ngài sẽ giữ gìn con mãi."(Tv 40,12) Chính lòng thành tín và yêu thương của Ngài sẽ cứu độ chúng ta. Chính vì thế mà chúng ta phó thác mọi sự cho tình thương và lòng thương xót của Ngài:"Trong tay Ngài, con xin phó thác hồn con, Ngài đã cứu chuộc con, lạy CHÚA TRỜI thành tín."(Tv 31,6)
Cựu Ước không ngừng ca ngợi tình thương và lòng thanh tín của Ngài: "Tình thương CHÚA, đời đời con ca tụng, qua muôn ngàn thế hệ miệng con rao giảng lòng thành tín của Ngài... Lạy CHÚA, thiên đình xưng tụng những kỳ công của Chúa, cộng đoàn chư thánh ca ngợi lòng thành tín của Ngài." (Tv 89,2  & 6) và "được tuyên xưng tình thương của Ngài từ buổi sớm,và lòng thành tín của Ngài suốt canh khuya."(Tv92,3) Các tổ phụ, các ngôn sứ và dân chúng dựa vào đó mà kêu xin: "xin ĐỨC CHÚA lấy tình thương và lòng thành tín mà đối xử với anh em." (2Sm2,6) Mỗi lần dân thất tín các tổ phụ đều dựa vào lòng trung thành của Chúa với giao ước mà kêu xin: "Xin Ngài nhớ đến các tôi tớ Ngài là Áp-ra-ham, I-xa-ác và Ít-ra-en; Ngài đã lấy chính danh Ngài mà thề với các vị ấy rằng: Ta sẽ làm cho dòng dõi các ngươi đông đúc như sao trên trời, và sẽ ban cho dòng dõi các ngươi tất cả miền đất ấy, là miền đất Ta đã hứa; chúng sẽ được thừa hưởng miền đất ấy đến muôn đời."(Xh 32,13)
Ngày chúng ta khấn, đó là ngày Thiên Chúa đến ký kết giao ước tình thương với chúng ta. Giao ước này là sáng kiến của Thiên Chúa, và Thiên Chúa thực hiện qua Giáo Hội. Bởi vì đây là giao ước của Ngài, nên Ngài trung thành với sáng kiến của Ngài tới cùng.
2. Đức Kitô là tình thương và lòng trung thành của Thiên Chúa
Đức Giê-su được một tác vụ cao trọng hơn,
Chúa Kitô là trung gian giao ước giữa Thiên Chúa và con người "bởi vì Người là trung gian của một giao ước tốt đẹp hơn." (Dt 8,6) Chính Ngài là hiện thân của tình thương và lòng thành tín của Thiên Chúa đối với con người. Chính nơi Ngài mà một giao ước mới và vĩnh viễn được thiết lập, trong đó Thiên Chúa lại nói lên một lần nữa cách dứt khoát và vĩnh viễn lòng trung thành của Ngài trong máu Con Một Ngài. Chúa Kitô được mệnh danh là người tôi trung của Đức Chúa như nói đến trong Is 52,13-15. Để nói lên lòng trung thành của Ngài, Thiên Chúa đã để Người Tôi Trung "mang lấy những bệnh tật của chúng ta, đã gánh chịu những đau khổ của chúng ta, còn chúng ta, chúng ta lại tưởng người bị phạt, bị Thiên Chúa giáng hoạ, phải nhục nhã ê chề. Chính người đã bị đâm vì chúng ta phạm tội, bị nghiền nát vì chúng ta lỗi lầm, người đã chịu sửa trị để chúng ta được bình an, đã phải mang thương tích cho chúng ta được chữa lành" (Is 53, 4-5) Thánh Phaolô nói: "Đức Ki-tô có đến phục vụ những người được cắt bì, để thực hiện những gì Thiên Chúa đã hứa với tổ tiên họ, đó là do lòng trung thành của Thiên Chúa." (Rm15,9)
Thánh Phaolô cũng nói: "Đấng kêu gọi anh em là Đấng trung thành: Người sẽ thực hiện điều đó."(1Tx 5,24) Thiên Chúa giữ lòng trung thành của Ngài với Giao Ước bằng mọi giá ngay cả thí Con Một mình đi. Ngay cả khi con người thất tín Thiên Chúa cũng không bao giờ hủy bỏ giao ước, bởi vì "nếu ta không trung tín, Người vẫn một lòng trung tín, vì Người không thể nào chối bỏ chính mình." (2 Tm2,13) Ngài không thể chối bỏ chính mình Ngài, vì thế Ngài không thể nào chối bỏ một ai vì đó là hình ảnh của Ngài. Ngài không thể nói: mầy không phải là con tao vì mầy không giữ giao ước. Không, không bao giờ Ngài nói như vậy được. Khi chúng ta vì yếu đuối có thể thất tín thì Thiên Chúa ban sức mạnh để nâng đỡ sự yếu hèn của chúng ta: "Thiên Chúa là Đấng trung tín: Người sẽ làm cho anh em được vững mạnh, và bảo vệ anh em khỏi ác thần"(2Tx 3,3)  
3. Người tu sĩ sống Lòng Trung Thành
Khi khấn, lòng trung thành của chúng ta không dựa trên con người yếu hèn của chúng ta, nhưng dựa trên sự trung thành của Chúa Kitô. Khi chúng ta khấn, giao ước tình yêu này được đảm bảo bởi tình thương và lòng trung thành của Thiên Chúa. Chỉ có Ngài, chỉ có mình Ngài mới có khả năng làm cho giao ước đó tồn tại và vững bền được. Không có tình thương và lòng thành tín của Ngài giao ước tình yêu đó sẽ trở thành gánh nặng, nỗi lo sợ cho mỗi người chúng ta, bởi vì chúng ta không bao giờ có thể trung thành với giao ước đó. Lòng trung thành của Chúa cũng sẽ truyền sang cho chúng ta bằng chính Con Một Ngài để từ đó chúng ta mới có thể trung thành với giao ước. Như vậy sau cùng tất cả đến từ Thiên Chúa.
Ngày chúng ta khấn không phải là ngày chúng ta khấn một mình, bởi vì chúng ta không có khả năng làm chuyện này. Một thụ tạo yếu hèn tội lỗi như chúng ta không có khả năng tuyên thệ với Thiên Chúa là Đấng cao cả, đầy thánh thiện. Và chúng ta không có khả năng trung thành với giao ước mình ký kết với Thiên Chúa. Chỉ mình Chúa Kitô, ở trong cung lòng thẳm sâu mới có khả năng này. Khi chúng ta khấn là chúng ta khấn nhờ Đức Kitô, cùng với Đức Kitô,  và trong Đức Kitô, hiệp nhất với Thần Khí của Ngài. Nói đúng hơn chính Chúa Kitô khấn trong chúng ta, chính Chúa Kitô ở trong chúng ta ký kết Giao ước này với Thiên.  Vì vậy sự trung thành của chúng ta dựa vào sự trung thành của Chúa Kitô. Thư Do Thái nói: "Còn Đức Ki-tô thì trung thành với tư cách là người Con đứng đầu nhà Thiên Chúa" (DT 3,6 ) Đứng đầu nhà Thiên Chúa là Thân Mình Ngài. Với tư cách là con người Ngài đã trung thành và trung thành cho đến chết. Ngày nay khi chúng ta khấn Ngài cũng đến và dẫn chúng ta vào trong sự trung thành đến chết của Ngài. Không có Ngài, không bao giờ chúng ta có thể trung thành mãi mãi được.
Cùng với Chúa Kitô chúng ta sống sự trung thành của chúng ta ngang qua sự yếu hèn của chúng ta. Ý thức sự yếu hèn của mình, chúng ta chỉ biết dựa vào Chúa Kitô bằng cách sống với Ngài qua Bí Tích Thánh Thể, qua việc cầu nguyện và lắng nghe tiếng Chúa, qua thâm tâm của mình và qua cộng đoàn mà mình đang sống trong đó. Và chúng ta trung thành sống với Ngài trong những chuyện bên ngoài xem ra tầm thường, nhỏ mọn, bởi vì chẳng có gì nhỏ mọn trước mặt Chúa cả: "Ai trung tín trong việc rất nhỏ, thì cũng trung tín trong việc lớn; ai bất lương trong việc rất nhỏ, thì cũng bất lương trong việc lớn" (Lc 16,10) Nếu chúng ta coi thường những chuyện nhỏ, và bỏ qua không lo sống trung thành thì lúc nào đó chúng ta sẽ phản bội giao ước. Dù nhỏ hay lớn, phản bội vẫn là phản bội. Một dính bén nào cũng có thể trở thành bất trung với Chúa.
Chúng ta trung thành với Chúa bằng tình yêu chứ không bằng vụ lợi nào khác. Chúng ta không cần làm chuyện gì vĩ đại, nhưng làm mọi sự với tâm hồn vĩ đại là yêu mến Chúa và anh chị em mình. Chính tình yêu và lòng trung thành trong những chuyện nhỏ mọn làm cho cuộc đời, lời khấn của người tu sĩ trở nên có ý nghĩa thực sự. Chúa thích chúng ta trung thành trong mọi chuyện bằng tình yêu dành hoàn toàn cho Ngài. Khi khấn vâng phục chúng ta cố gắng trung thành với việc tìm kiếm và lắng nghe lời Chúa để tìm kiếm ý Ngài. Khi khấn khó nghèo chúng ta trung thành với việc từ bỏ của cải trần gian để chỉ tìm kiếm của cải trên trời. Khi khấn khiết tịnh chúng ta quyết chị sống trung thành với tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô.
4. Tu sĩ sống trung thành với cộng đoàn
Bên cạnh đó nếu chúng ta trung thành với Chúa thì chúng ta cũng phải trung thành với Cộng đoàn. Cộng đoàn và Chúa Kitô luôn đi với nhau. Với lời khấn vâng phục chúng ta trung thành với việc vâng phục Chúa qua Bê trên và chị em, qua những chuyện bình thường trong ngày với con tim yêu mến Chúa, Bề trên và cộng đoàn. Với lời khấn khó nghèo chúng ta cố gắng trung thành bỏ của cải chung vào để không ai còn coi là của riêng, để hoàn toàn sống như nhau và cho nhau.
Trung thành với cộng đoàn bằng cách sống đặc sủng của mình, nghĩa là trung thành với truyền thống, hiến pháp và nội quy của Hội Dòng, của cộng đoàn. Trung thành với cộng đoàn trong các giờ chung, giờ kinh, giờ phụng vụ, giờ cơm, giờ giải trí, giờ đọc kinh thánh, .... Người trung thành với lời khấn thì sẽ sống theo những yêu câu mà mình đã tìm hiểu và chấp nhân.
Trung tín là một trong những hoa quả hoạt động của Chúa Thánh Thần:"Còn hoa quả của Thần Khí là: bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín"(Gl 5,22) Chính Thần Khí sẽ làm cho chúng ta có khả năng trung thành với giao ước tình yêu này. Không có Chúa Thánh Thần, không có Chúa Kitô thì không bao giờ chúng ta có khả năng trung thành được cả. Điều chúng ta làm là kêu van Chúa Thánh Thần đến, mỗi khi chúng ta làm bất cứ việc gì. Từ ngày khấn chúng ta không còn hành động theo xác thịt nữa mà theo sự hướng dẫn của Thần Khí Chúa Kitô.
Tóm lại
Trong giao ước tình yêu, Thiên Chúa luôn trung thành với giao ước, Ngài làm mọi sự để có thể trung thành với chúng ta. Nếu chúng ta yêu mến, chúng ta sẽ cố gắng không phản bội Ngài dù đó chỉ là chuyện nhỏ mọn. Nhưng chúng ta không bao giờ làm nổi nếu như không có Chúa Kitô ở với chúng ta. Vì vậy chúng ta phải luôn xin Chúa Kitô, Đấng trung thành,  ở với chúng ta.

IX. SỐNG GIAO ƯỚC TÌNH YÊU LÀ SỐNG HY SINH
"Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình. Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy. Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết." (Ga 15, 13-15)

Càng yêu nhau bao nhiêu người ta càng sống hy sinh bấy nhiêu. Không thể có tình yêu đích thực nếu chỉ có ích kỷ mà không có hy sinh. Thiên Chúa yêu chúng ta vô cùng, nên Ngài hy sinh tất vì chúng ta. Trong Giao ước tình yêu Ngài đã thực sự hy sinh vì chúng ta. Nếu chúng ta yêu mến Ngài, chúng ta cũng sẽ phải hy sinh. Ngày chúng ta khấn là ngày chúng ta bước vào một hành trình của sự hy sinh vì tình yêu.
1. Sự hy sinh của Thiên Chúa
Kinh Thánh không dùng chữ hy sinh để nói rõ Thiên Chúa đã hy sinh, nhưng có những tường thuật qua đó Thiên Chúa nói lên sự hy sinh của Ngài, chẳng hạn câu chuyện Chúa bảo Abraham đem con trai mình lên núi Morigia để sát tế làm của lễ dâng lên cho Chúa (St 22,1-19). Thế nhưng Chúa đã ngăn lại không cho ông giết đứa trẻ. Câu chuyện này là hình bóng về việc chính Thiên Chúa sẽ dẫn Con Một của Ngài lên núi Golgotha. Thiên Chúa là người cha đầy yêu thương, là Thiên Chúa của kẻ sống, với đầy đủ quyền năng, vậy mà Ngài đã "đứt ruột nhắm mắt" để người ta hành hạ Con Mình, treo Con Mình lên thập giá.
Tại sao Ngài làm thế? Vì chúng ta, vì thương chúng ta, vì muốn cứu chúng ta, bởi vì "không có tình thương nào ao cả hơn tình thương của người hy sinh vì bạn hữu mình" (Ga 15,13), và hơn nữa Thiên Chúa hy sinh vì con người tội lỗi, trong đó có mỗi người chúng ta. Thánh Phaolô nói: "Khi chúng ta không có sức làm được gì vì còn là hạng người vô đạo, thì theo đúng kỳ hạn, Đức Ki-tô đã chết vì chúng ta. Hầu như không ai chết vì người công chính, hoạ may có ai dám chết vì một người lương thiện chăng. Thế mà Đức Ki-tô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi; đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta... Ngay khi chúng ta còn thù nghịch với Thiên Chúa, Thiên Chúa đã để cho Con của Người phải chết mà cho chúng ta được hoà giải với Người" (Rm 5,6-10) Vì yêu chúng ta mà "đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta." (Rm8,32) Vì chúng ta mà" Thiên Chúa đã đổ trên đầu Người tội lỗi của tất cả chúng ta, ....đã muốn Người phải bị nghiền nát vì đau khổ." (Is 53, 6 & 10) Vì yêu chúng ta mà Thiên Chúa không tiếc gì với chúng ta, Ngài ban tất cả cho chúng ta trong Con Một Ngài (x.Rm 8,33) Ngài trở nên nghèo nàn để cho chúng ta được giàu có (x.2Cr 8, ) Thiên Chúa đã hy sinh đến tận xương tủy vì chúng ta.
2. Chúa Kitô đã hy sinh vì chúng ta
Cùng một tâm tình, một tình thương giống như Cha, Chúa Giêsu đã hy sinh mạng sống vì đoàn chiên, vì mỗi người chúng ta:" Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi, như Chúa Cha biết tôi, và tôi biết Chúa Cha, và tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên." (Ga 10,15) Cả cuộc đời của Chúa Giêsu là một sự lăn xả, sống chết cho chúng ta. Ngài chấp nhận nghèo để sống với chúng ta, như chúng ta; Ngài chấp nhận bị nộp vì chúng ta (Gl2,20); Ngài như con chiên bị dắt đi xén lông, không kêu ca, chỉ vì chúng ta. Vì chúng ta Ngài trở nên "người không ra người, ngợm không ra ngợm", ai thấy cũng phải che mặt, Ngài chấp nhận bị nghiền nát, (x Is. 53, 2-10) và Thập giá là tột đỉnh sự hy sinh của Thiên Chúa khi thiết lập Giao ước với con người
Thập giá mà Sự dữ đã dựng lên cách đây hai ngàn năm và đang còn đó trước mắt chúng ta như là dấu chứng sự hy sinh của Thiên Chúa và của Con Một Ngài vì chúng ta. Thập giá là lễ hy sinh của Thiên Chúa và Con Một Ngài, mà ngày nay đang diễn ra từng giây từng phút, và đang không ngừng kéo chúng ta vào trong đó. Hành vi hy sinh của Thiên Chúa còn kéo dài cho đến tận thế, và cũng có thể nói là trong cõi đời đời sự hy sinh đó vẫn còn vì nó là bản chất của tình yêu. Bao lâu còn tình yêu bấy lâu còn hy sinh.
Ngày chúng ta khấn Thiên Chúa đến thiết lập giao ước tình yêu với chúng ta, trong đó Ngài tiếp tục thể hiện sự hy sinh và hy sinh cho đến cùng. Ngày đó là Ngày mà Ngài đến hy sinh và kéo chúng ta vào trong sự hy sinh của Ngai, trong mầu nhiệm vượt qua của Con Một Ngài. Khấn là một hành vi hiến thân của Thiên Chúa và con người đáp lại. Ngày khấn chúng ta ý thức Thiên Chúa đang đến trong sự hy sinh của Ngài, và Chúa Giêsu là hiện thân cho sự hy sinh đó. Chính Chúa Giêsu cùng với Thập giá của Ngài sẽ kéo chúng ta vào trong hành vi đó: "Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi." (Ga 12,32)
3. Sự hy sinh của người tu sĩ vì yêu mến Chúa
Vì Tình yêu đối với chúng ta, Thiên Chúa đã hy sinh tất cả. Nếu chúng ta yêu mến Chúa, nếu chúng ta muốn đi vào con đường thập giá Chúa Kitô, nếu chúng tha thiết với tình yêu dành cho Ngài, chúng ta cũng phải hy sinh.
Vì Thiên Chúa, vì Chúa Kitô mà chúng ta sẵn sàng đánh đổi tất cả, và nói như thánh Phaolô: "Tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Ki-tô Giê-su, Chúa của tôi. Vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Ki-tô." (Pl3,9) Chúng ta hy sinh, bởi vì chúng ta xác tín rằng: "Đức Ki-tô đã chết thay cho mọi người, để những ai đang sống không còn sống cho chính mình nữa, mà sống cho Đấng đã chết và sống lại vì mình." (2Cr 5,15) Tình yêu đòi chúng ta hy sinh tất cả, hy sinh sức khỏe, hy sinh thời giờ, hy sinh của cải, hy sinh ý riêng của mình... cho Chúa. Hiện nay chúng ta sống là sống trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu thương chúng ta và đã phó nộp vì chúng ta (Gl2,20). Chúng ta chấp nhận tất cả, nhưng không buồn phiền. Đối với người đời, chúng ta có thể trở thành những kẻ bị coi thường, nhưng chúng ta sẽ sống "khi vinh cũng như khi nhục, lúc được tiếng tốt cũng như khi mang tiếng xấu. Bị coi là bịp bợm, nhưng kỳ thực chúng tôi chân thành; bị coi là vô danh tiểu tốt, nhưng kỳ thực chúng tôi được mọi người biết đến; bị coi là sắp chết, nhưng kỳ thực chúng tôi vẫn sống; coi như bị trừng phạt, nhưng kỳ thực không bị giết chết; coi như phải ưu phiền, nhưng kỳ thực chúng tôi luôn vui vẻ; coi như nghèo túng, nhưng kỳ thực chúng tôi làm cho bao người trở nên giàu có; coi như không có gì, nhưng kỳ thực chúng tôi có tất cả" (2Cr 6,8-10)
Ngày tôi khấn là ngày tôi thề hứa sống chết cho Ngài, thề hứa hy sinh tất cả để chỉ sống cho mình Ngài, và sẵn sàng để cho thập giá kéo tôi đi, đôi khi kéo tôi đến nơi mà tôi không muốn (x.Ga21,18). Khi tôi khấn tôi muốn dấn thân vào trong một giao ước, trong đó tôi không còn sống cho tôi nữa, nhưng tôi cam kết liều mạng sống của tôi với Chúa. Tôi sẽ hy sinh ý riêng của tôi  để sống cho Thiên Chúa, cho Chúa Kitô, mặc dù đôi lúc tôi cảm thấy không vâng lời nổi nữa. Lúc đó thập giá Chúa kitô sẽ xuất hiện trước mắt tôi để nhắc tôi.  Tôi sẽ hy sinh của cải, ngay cả của cải chính đáng để trở nên nghèo hèn như Chúa Kitô. Và chắc chắn lúc nào đó tôi muốn lấy lại, lúc đó Thập Chúa Kitô xuất hiện để kéo tôi đi vào con đường tôi đã chọn. Tôi sẽ hy sinh tình yêu, ngay cả tình yêu chính đáng, để chỉ dành tình yêu cho Thiên Chúa, và rồi có nguy cơ là vì yếu đuối tôi có thể đi kiếm một tình yêu nào đó để bù đắp lại những gì tôi đã từ bỏ. Khi đó lại một lần nữa, tình yêu của Thập Giá lại thúc bách tôi.
4. Sống sự hy sinh qua cộng đoàn
Sống hy sinh cho Chúa không phải là sống trên lý thuyết mà sống cách cụ thể cho Chúa ngang qua chính anh chị em mình. Sự hy sinh được biểu lộ trong sự xả thân vì cộng đoàn, vì yêu mến Chúa và cộng đoàn, và xả thân trong những chuyện nhỏ nhất. Giao ước tình yêu mà chúng ta thực hiện qua lời tuyên khấn sẽ dẫn chúng ta vào trong đời sống cộng đoàn, và cộng đoàn không phải là nơi để làm khổ nhau, mà là nơi để mỗi người có môi trường sống Giao ước của mình. Trong đó họ lắng nghe nhau với tình yêu bác ái, họ vâng lời nhau không vì vụ lợi; họ chia sẻ của cải với nhau, họ không tranh giành, mà là để chung (x. Cv 4,32-34); họ từ bỏ tình cảm riêng tư để để chỉ biết sống cho nhau, coi mọi người là chị em. Điều đó đòi chúng ta hy sinh nhiều. Sẽ không có sự hy sinh cho Chúa nếu không có sự hy sinh cho và vì chị em.
5. Chúa Kitô làm trong chúng ta
Chúng ta có cố gẵng mấy đi nữa, sau cùng chúng ta phải thú nhận rằng không bao giờ chúng ta có thể hy sinh như Chúa muốn. Vì vậy chúng ta cần Chúa Giêsu, Đấng đã hy sinh vì chúng ta, với chúng ta, và trong chúng ta. Chỉ có Ngài mới xứng đáng và đủ tư cách xứng với tình thương và sự hy sinh của Thiên Chúa. Vì vậy chúng ta làm bất cứ điều gì, nhất là sự hy sinh, chúng ta phải dựa vào Chúa Giêsu với sức mạnh thập giá của Ngài mà làm.
Tóm lại,
Nếu tình yêu đã thúc bách Thiên Chúa hy sinh vì chúng ta, thì tình yêu cũng thúc bách chúng ta hy sinh vì Ngài. Giao ước tình yêu đòi Thiên Chúa hy sinh và cũng đòi mỗi người chúng ta hy sinh. Giao ước chẳng có giá trị gì nếu không có sự hy sinh vì tình yêu. Nếu tình yêu là vĩnh viễn thì sự hy sinh cũng vĩnh viễn. Khi chúng ta chấp nhận hy sinh vì tình yêu, đời dâng hiến mới có giá trị, bởi vì chúng ta sẽ gặp được hạnh phúc trong sự hy sinh.
 
X. SỐNG GIAO ƯỚC TÌNH YÊU LÀ  SỐNG THA THỨ
"Bấy giờ, ông Phê-rô đến gần Đức Giê-su mà hỏi rằng: "Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không? " Đức Giê-su đáp: "Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy." (Mt 18,21-22)

Khi thương nhau người ta sẵn sàng tha thứ cho nhau. Còn nếu không có tình thương người ta khó mà tha thứ cho nhau. Vì yêu thương chúng ta Thiên Chúa cũng sẵn sàng tha thứ cho chúng ta. Giao ước tình yêu ngày chúng ta khấn là giao ước giữa một Thiên Chúa thánh thiện và một con người đầy yếu đuối và tội lỗi. Để giữ giao ước bền chặt Thiên Chúa vì tình yêu Ngài luôn tha thứ cho chúng ta.
1. Thiên Chúa luôn tha thứ cho chúng ta
Bản chất của Thiên Chúa là tình yêu, và bản chất của tình yêu là sự tha thứ. Vì yêu thương con người nên Ngài vui thích khi tha thứ cho con người. Ngài không tha thứ vì miễn cưỡng. Ngài ghét tội nên Ngài thích tha thứ. Sự tha thứ phát xuất từ lòng thương xót của Ngài và có thể nói tên của Ngài là Lòng Thương xót, như Đức Thánh Cha Phanxicô gọi. Nếu Thiên Chúa không thương xót thì không còn là Thiên Chúa.
Cả lịch sử cứu độ là cả một hành động thương xót của Thiên Chúa. Dân Israel thường phản bội, bất trung với giao ước mà họ đã ký kết với Thiên Chúa. Mỗi lần dân bất trung Thiên Chúa nhớ lại Giao ước mà Ngài ký kết với họ để tha thứ cho họ (x. Lv 26,42). Họ phạm tội chạy xa Thiên Chúa, còn Thiên Chúa lại chạy đi kiếm tìm họ để nói với họ rằng Ngài sẵn sàng tha thứ cho họ và mời họ quay trở lại với Ngài, bởi vì "muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương" , bởi vì "Thiên Chúa nhân hậu và từ bi, hay nén giận, giàu nhân nghĩa và thành tín, giữ lòng nhân nghĩa với muôn ngàn thế hệ, chịu đựng lỗi lầm, tội ác và tội lỗi." (Xh 34,6) Bởi vì Ngài là Thiên Chúa tình thương nên Ngài không thể bỏ dân của Ngài, Ngài không thể không tha thứ cho họ : "Thật vậy ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em) là Thiên Chúa từ bi: Người sẽ không bỏ mặc anh (em), sẽ không tiêu diệt anh (em), sẽ không quên giao ước Người đã thề với cha ông anh (em). "
Bởi vì Ngài động lòng xót thương trước những người yếu đuối và tội lỗi: "ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của tổ tiên họ vẫn không ngừng sai sứ giả của Người đến cảnh cáo họ, vì Người hằng thương xót dân và thánh điện của Người." (2Sbn 36,15) Thiên Chúa vui mừng khi tha cho Dân Ngài: "Vì ngươi, Chúa sẽ vui mừng hoan hỷ, sẽ lấy tình thương của Người mà đổi mới ngươi. Vì ngươi, Chúa sẽ nhảy múa tưng bừng." (Xp3,17) Thiên Chúa sẽ đau khổ, nói theo ngôn ngữ con người, nếu Ngài thấy dân không tin tưởng vào lòng thương xót của Ngài. Thiên Chúa sẽ làm tất cả để cho Dân Ngài thấy Ngài là Đấng hay thương xót và sẵn sàng tha thứ cho họ. Lòng thương xót của Ngài sau cùng đậu lại nơi một con người: Con Một Ngài, Đức Giêsu Kitô.
2. Thiên Chúa tha thứ cho chúng ta trong Đức Kitô.
Chúa Kitô là hiện thân của lòng thương xót Thiên Chúa. Thánh Phaolô nói: "Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta, nên dầu chúng ta đã chết vì sa ngã, Người cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức Ki-tô." (Ep 2,4-5) Lòng thương xót của Thiên Chúa thể hiện trên khuôn mặt của Chúa Kitô, trong lời nói và hành động của Ngài, nhất là cái chết của Ngài. Thành ngữ " động lòng thương xót" được lập đi lập lại nhiều lần trong các Sách Tin Mừng. Trước những người đau ốm bệnh hoạn tật nguyền, Ngài động lòng xót thương; trước những người tội lỗi trong dụ ngôn người cha nhân lành (Lc 15, 11-32) và dụ ngôn tên mắc nợ không biết xót thương (Mt18,23-35). Đứng trước người đàn bà ngoại tình Chúa tìm cách để cứu chị và cuối cùng Ngài nói: ""Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu!" (Ga 8,2-11) "Tội con đã được tha" luôn ở trên miệng Chúa Kitô khi Ngài chữa bệnh (x.Lc 5,20), khi ngài tha thứ cho ai, cho người đàn bà tội lỗi (x.Lc 7,48)
Khi chúng ta phạm tội chúng ta tự kết án chính mình, còn Ngài không bao giờ kết án chúng ta. Thánh Gioan nói: "Vì nếu lòng chúng ta có cáo tội chúng ta, Thiên Chúa còn cao cả hơn lòng chúng ta và Người biết hết mọi sự."(1Ga 3,20) Còn thánh Phaolô thì nói: "Ai sẽ buộc tội những người Thiên Chúa đã chọn? Chẳng lẽ Thiên Chúa, Đấng làm cho nên công chính? Ai sẽ kết án họ? Chẳng lẽ Đức Giê-su Ki-tô, Đấng đã chết, hơn nữa, đã sống lại, và đang ngự bên hữu Thiên Chúa mà chuyển cầu cho chúng ta?" (Rm8, 33-34) Khi chúng ta phạm tội chúng ta quay lưng lại với Chúa, nhưng Chúa không bao giờ quay lưng lại với chúng ta. Khi chúng ta phạm tội chúng ta chạy trốn Thiên Chúa, còn Ngài chạy đi tìm chúng ta. Khi chúng ta phạm tội chúng ta gớm chúng ta, còn Ngài không bao giờ khinh bỉ chúng ta. Ngài không mệt mỏi tha thứ cho chúng ta, Đức Thánh Cha Phanxicô nói như vậy. Lên án hay  kết án không có trong tâm, trong bản tính Thiên Chúa. Ngài không thể vừa "có" lại vừa "không", không thể vừa tha thứ lại vừa không tha; vừa yêu lại vừa ghét.
Trên thập giá sự tha thứ của Thiên Chúa đạt đến tột đỉnh của nó. Chính trên thập giá mà giao ước được ký kết và cũng trên thập giá sự tha thứ của Thiên được biểu lộ ra và đi vào trong giao ước như là yếu tố tạo nên giao ước. Chính trên thập giá tiếng kêu xin: "Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm" đi vào trong giao ước vĩnh cửu, và giờ đây trong giao ước của mỗi người chúng ta với Chúa. Thánh Gioan nói: "Nhưng nếu ai phạm tội, thì chúng ta có một Đấng Bảo Trợ trước mặt Chúa Cha: đó là Đức Giê-su Ki-tô, Đấng Công Chính. Chính Đức Giê-su Ki-tô là của lễ đền bù tội lỗi chúng ta, không những tội lỗi chúng ta mà thôi, nhưng còn tội lỗi cả thế gian nữa." (1Ga2,1)  Khi ký kết giao ước với con người trong máu Chúa Kitô, một sự tha thứ đã nằm sẵn trong đó, có tiếng kêu van tha thứ của Chúa Giêsu, để khi con người phạm tội thì tức khác có  sự tha thứ của Chúa để bù lại những thiếu sót của con người. Lòng thương xót luôn luôn có đó để đánh gục tất cả mưu mô của sự dữ, của tội lỗi. Chúng ta khấn là khấn với một Thiên Chúa đầy lòng  xót thương và tha thứ, như bảo đảm cho chúng ta tính bền vững của giao ước tình yêu này và đuổi xa sự sợ hãi nơi chúng ta. Ngay khi chúng ta khấn Ngài trao ban cho chúng ta lòng thương xót của Ngài, trong đó có sự tha thứ. Tha thứ là món quà Thiên Chúa ban cho chúng ta. Ngài không có gì làm quà cho chúng ta ngoài sự tha thứ là chính Con Một Ngài.
Trên thập giá sự tha thứ thâm nhập vào tâm của những ai biết mở lòng ra cho Chúa. Trên thập giá sự tha thứ không còn dừng lại nơi một ai mà là cho mọi người: "Đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra cho muôn người được tha tội." (Mt 26,28) Trên thập giá sự tha thứ thâm nhập giao ước tình yêu giữa Chúa với ta và ta với Chúa, trở thành một sức mạnh mà sự dữ sợ hãi vì nó không có sự tha thứ như Chúa. Cũng như trước đây nó muốn làm cho Chúa Giêsu cũng giống nó là không tha thứ khi nó treo Chúa Giêsu trên thập giá, thì giờ đây nó cũng muốn làm như vậy. Trên thập giá nó không ngờ Chúa lại tha thứ cho những kẻ giết Ngài, thì giờ đây Không bao giờ Sự dữ có thể làm cho Thiên Chúa hết thương chúng ta, hết tha cho chúng ta.
Trên thập giá Thiên Chúa giao hòa với con người. Con người không có khả năng giao hòa với Thiên Chúa, Thiên Chúa xuống giao hòa với con người. Chính trên thập giá mà bức tường ngăn cách giữa Thiên Chúa và con người bị phá đỗ: "Ngay khi chúng ta còn thù nghịch với Thiên Chúa, Thiên Chúa đã để cho Con của Người phải chết mà cho chúng ta được hoà giải với Người" (Rm5,10) Thiên Chúa là Đấng vô tội lại đi xuống giao hòa với chúng ta là những tội nhân. Ngài làm thế chỉ vì thương chúng ta.
Khi chúng ta sống giao ước tình yêu, chúng ta sẽ sống với sự tha thứ của Thiên Chúa, với lòng thương xót của Ngài. Trong ngày khấn chúng ta dâng hiến cuộc đời chúng ta cho Ngài, toàn bộ mạng sống chúng ta cho Ngài, trong đó bao gồm cả yếu đuối tội lỗi của chúng ta, bởi vì chúng ta biết "nếu chúng ta thú nhận tội lỗi, Thiên Chúa là Đấng trung thành và công chính sẽ tha tội cho chúng ta, và sẽ thanh tẩy chúng ta sạch mọi điều bất chính." (1Ga 1,9) Như vậy ngày khấn cũng là ngày thú tội để nhận được sự thanh tẩy, để được nên tinh tuyền vào giây phút đó, ngày mà chúng ta nhận mình tội lỗi yếu đuối để chỉ còn biết bám vào lòng thương xót Chúa mà đi.
Vì vậy chúng ta không bao giờ thất vọng mà hoàn toàn tin tưởng vào lòng xót thương của Chúa. Thiên Chúa không bao giờ thất vọng về chúng ta, thì chúng ta cũng không bao giờ thất vọng về mình. Thất vọng là đứng về phe sự dữ.
3. Tha thứ cho anh chị em mình
Nếu Thiên Chúa yêu chúng ta, đã ký kết giao ước với chúng ta và đã cam kết mãi mãi tha thứ cho chúng ta, thì cũng vậy ngày khấn chúng ta sẽ cam kết sống lòng xót thương của Chúa đối với anh chị em của chúng ta, cam kết tha thứ cho chị em mình. Ngày đó chúng ta xin lòng thương xót Chúa và cộng đoàn thì cũng ngày đó và mãi mãi về sau chúng ta cũng biết trao ban lòng thương xót đó cho chị em của chúng ta. Không ai được phép ích kỷ  giữ món quà lòng thương xót Chúa cho riêng mình, mà phải trao ban và trao ban cả đời, bởi lẽ sẽ không nhận được lòng thương xót nếu không biết xót thương. Kết thúc dụ ngôn Dụ ngôn tên mắc nợ không biết thương xót, Chúa Giêsu kết luận: "Cha của Thầy ở trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như thế, nếu mỗi người trong anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình." (Mt18,35) Chúa tha cho chúng ta, và Chúa không đòi gì hơn nơi chúng ta ngoài trừ Ngài xin chúng ta tha thứ cho chị em mình. Ngài đang ở trong chị em và đang thay chị em xin chúng ta sự tha thứ. Tha thứ là quà tặng của Thiên Chúa, Ngài mời gọi chúng ta cũng trao tặng lại cho chị em mình. Vì lòng mến chúng ta sẵn sàng tha thứ cho anh chị em mình: "Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả" (1Cr 13,7)
 Tha thứ mở ra con đường sống cho chính mình và cho anh em của mình. Không tha sẽ mở ra con đường chết cho chị em mình và cũng cho chính mình. Khi chúng ta không tha thứ chúng ta trở thành con người độc ác: "Tên đầy tớ độc ác kia, ta đã tha hết số nợ ấy cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta, thì đến lượt ngươi, ngươi không phải thương xót đồng bạn, như chính ta đã thương xót ngươi sao? " (Mt18,32-33) Khi chúng ta không tha thứ chúng ta muốn người kia chết; khi đó chúng ta trở thành kẻ sát nhân, mà như thánh Gioan nói, "phàm ai ghét anh em mình, ấy là kẻ sát nhân. Và anh em biết: không kẻ sát nhân nào có sự sống đời đời ở lại trong nó." (1Ga 3,15) Thiên Chúa không bao giờ thất vọng về chúng ta, thì chúng ta cũng không bao giờ được thất vọng về chị em mình.
Bên cạnh sự tha thứ, cùng với Chúa Giêsu chúng ta van xin sự tha thứ, kêu van lòng thương xót Chúa cho anh chị em của chúng ta, trong cộng đoàn cũng như bên ngoài xã hội, trong giáo hội cũng như trên khắp thế giới. Khi chúng ta khấn chúng ta sẽ được đưa vào trong chuyển động vĩnh cửu của tiếng kêu xin tha thứ của Chúa trên thập giá, kêu xin tha thứ cho mình và cho anh chị em của mình.
Trong sách Đối thoại của mình, thánh Catarina Xiêna đã cầu xin với Chúa: "Lạy Chúa Giêsu rất dịu hiền, xin đưa mắt nhân từ mà nhìn đến Hội Thánh là dân Chúa, đồng thời cũng là nhiệm thể của Chúa. Vì danh thánh Chúa càng được vinh quang, khi Chúa tha thứ cho một đoàn vô số thụ tạo mà Chúa đã dựng nên, hơn là chỉ tha thứ cho một mình con là kẻ khốn cùng, kẻ đã xúc phạm nặng nề đến quyền uy cao cả của Chúa. Làm sao con có thể thấy yên tâm khi thấy con được hưởng sự sống, còn dân Chúa lại chìm trong sự chết? Làm sao con có thể thấy yên hàn khi thấy vì những lỗi lầm của con và của các thụ tạo khác Chúa đã dựng nên, mà bóng đêm tội lỗi lại xuất hiện trong Hội Thánh là hiền thê yêu quý của Chúa?....
"Lạy Thiên Chúa là Cha hằng hữu, cũng vì tình thương đó thúc đẩy, Chúa muốn ban ơn hoà giải cho nhân loại. Vì vậy, Chúa đã ban cho chúng con Ngôi Lời, Con Một Chúa, làm Đấng trung gian hoà giải giữa chúng con và Chúa. Chúa đã chỉ định cho Người mặc lầy nhân tính của chúng con, và Người đã vâng lệnh thi hành. Nhờ vậy, Người đã nên sự công chính của chúng con: Người đã mang lấy mọi điều bất chính và gian ác của chúng con và đã trừng phạt chúng nơi chính mình.
"Ôi, tình yêu sâu thẳm khôn lường! Thử hỏi có con tim nào chai đá đến nỗi không rúng động, không vỡ ra trước Đấng cao cả dường ấy, lại hạ mình tới mức thấp hèn như thế này, mức thấp hèn của loài người chúng con? Ôi Chúa Giêsu rất dịu hiền, chúng con là hình ảnh của Chúa, thế mà Chúa lại trở nên giống chúng con khi mang lấy thân phận người phàm. Chúa đã lấy nhân tính khốn cùng và tội lỗi của Ađam làm đám mây che khuất thần tính vĩnh cửu của Chúa. Cậy vì tình yêu khôn lường đó, hồn con tha thiết và khiêm tốn nài xin Chúa uy quyền dủ lòng thương xót những tạo vật khốn cùng của Chúa." (Trích từ : Bài Đọc II, Kinh Sách Chúa Nhật XIX TN)

Tóm lại
Trong giao ước vĩnh cửu, Thiên Chúa tha cho chúng ta và tha mãi mãi. Ngài muốn chúng ta sống giao ước tình yêu này bằng cách tha thứ cho anh chị em mình, giờ đây và mãi mãi. Ngài làm tất cả, tha thứ tất cả để mang lại niềm vui, bình an và sự sống đời đời cho chúng ta. Chúa Kitô đã kêu van sự tha thứ cho chúng ta thì chúng ta cũng phải kêu van sự tha thứ cho anh chị em của chúng ta.

XI. SỐNG GIAO ƯỚC TÌNH YÊU LÀ SỐNG BÌNH AN, NIỀM VUI, SỰ SỐNG VĨNH CỬU
"Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: "Bình an cho anh em" (Ga20,19)

Sống trong tình yêu là sống trong bình an, niềm vui và sống sung mãn. Trong giao ước của tình yêu tự nhiên, người này mang lại niềm vui, bình an, hạnh phúc cho người kia. Thiên Chúa yêu chúng ta và trong giao ước Ngài muốn mang lại niềm vui, bình an và sức sống của Ngài cho chúng ta.
1. Giao ước bình an
Ai cũng khao khát sự bình an. Dân Israel khao khát bình an, vì vậy câu chào của người Do Thái khi gặp nhau hoặc khi tiễn chân luôn là: có bình an không? Chúc đi bình an. (x.1Sm1,17) Có khao khát bình an cho cá nhân và khao khát bình an cho tập thể. Thiên Chúa ban bình an cho Đavít (1V2,33); Ngài ban bình an cho xứ sở(x.LV26,6).  Nhưng nhất là Ngài đã ký một giao ước bình an: "Ta sẽ lập với chúng một giao ước bình an; đó sẽ là giao ước vĩnh cửu đối với chúng, Ta sẽ định cư chúng, cho chúng sinh sôi nảy nở ra nhiều và đặt thánh điện của Ta ở giữa chúng cho đến muôn đời." (Ed37,26) Theo giao ước này Thiên Chúa đến đem lại bình an cho Dân của Ngài, đó chính là sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa dân.
Ngày chúng ta khấn là ngày Ngài ký kết với chúng ta một giao ước bình an, trong đó Ngài sẽ ở với chúng ta, trong chúng ta, đồng hành với chúng ta, bảo vệ chúng ta để làm cho chúng ta được bình an, một sự bình an đến từ Ngài,  bởi vì "Ngài là nguồn mạch sự bình an" (Dt 3,20)
Nhưng sự bình an này không đến như một ý niệm trừu tượng, mà được cụ thể hóa trong một con người, Đức Giêsu Kitô. Thánh Phaolô nói: "Chính Người là bình an của chúng ta" (Ep2,14) Sự bình an là quà tặng Thiên Chúa ban cho con người trong Đức Kitô. Chúa Kitô đến ban cho chúng ta bình an của Ngài chứ không phải bình an của thế gian. Ngài nói: "Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi." (Ga14,27)
Để có thể trao ban cho chúng ta sự bình an của Ngài, Thiên Chúa đã trao nộp chính Con Một Ngài trên thập giá để "nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời." (Cl1,20)  Chỉ sau khi chết và sống lại, khi hiện ra với các môn đệ Chúa Giêsu mới nói: "Bình an cho anh em." (Ga 20,21) Bình an mà Thiên Chúa ban cho chúng ta, Chúa Giêsu mang đến cho chúng ta là bình an của tình yêu, một tình yêu cho đến chết. Nếu không hy sinh mạng sống vì yêu mến, Ngài không bao giờ có thể mang lại sự bình an của Ngài cho chúng ta. Bình an mà Ngài ban cho chúng ta là bình an vĩnh cửu, bình an đến từ trời, mà thế gian không thể nào mang lại cho chúng ta được. Sự bình an thật không đến từ của cải vật chất, danh vọng, chức quyền, mà đến từ Chúa Kitô, từ thập giá của Ngài. Ai có Chúa Kitô với thập giá của Ngài là có sự bình an thật. Mặc dù người đó vẫn gặp đau khổ thử thách, nhưng họ vẫn có sự bình an, bình an trong Chúa: "Thầy nói với anh em những điều ấy, để trong Thầy anh em được bình an. Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian." (Ga 16, 33)
Ngày chúng ta khấn là ngày chúng ta đi vào trong một giao ước tình yêu, giao ước bình an,  đi vào trong mầu nhiệm thập giá, trong đó chúng ta sẽ lãnh nhận sự bình an cho mình và cho cộng đoàn. Chúng ta không chỉ nhận sự bình an cho mình mà thôi, nhưng còn cho chị em của mình nữa. Ngày khấn chắc chắn chị em sẽ hưởng được những ơn phúc trong đó có sự bình an từ những chị em khấn. Và điều này không dừng lại ở ngày khấn mà phải được kéo dài ra trong suốt cuộc đời của mỗi người và của  cộng đoàn.
Như vậy để có sự bình an thật cho mình và cho cộng đoàn chúng ta phải từ bỏ con người cũ  và mặc lấy con người mới là Đức Kitô (x.Cl 3,9; Rm13,14) và phải sống khiêm nhường, yêu thương và tha thứ cho nhau: "Ước gì ơn bình an của Đức Ki-tô điều khiển tâm hồn anh em, vì trong một thân thể duy nhất, anh em đã được kêu gọi đến hưởng ơn bình an đó." (Cl 3,15)
Ngày khấn chúng ta chấp nhận từ bỏ mọi sự: ý riêng, của cải, tình cảm để đi vào trong cái chết của Chúa Kitô, sống theo lối sống của Chúa để qua đó chúng ta có được sự bình an thật, đồng thời mang lại bình an cho chị em mình. Và một cách nào đó toàn thể cộng đoàn chị em cùng với chúng ta lập lại việc từ bỏ này để có được sự bình an thật.
 2. Giao ước của niềm vui
Niềm vui của hai người yêu nhau chính là con người kia. Trong giao ước tình yêu giữa Chúa và chúng ta, thì niềm vui của chúng ta là chính Chúa:"Nguyện tiếng lòng tôi làm cho Người vui thoả, đối với tôi, niềm vui là chính CHÚA." (Tv 104,34) Cũng như sự bình an, niềm vui của người tu sĩ không phải là tiền của, thành công, tài năng, nhưng là chính Chúa Kitô. Ngài ban cho chúng ta chính tình yêu của Ngài:"Các điều ấy, Thầy đã nói với anh em để anh em được hưởng niềm vui của Thầy, và niềm vui của anh em được nên trọn vẹn." (Ga15,11) Niềm vui của Chúa là niềm vui vĩnh cửu mà chỉ có thập giá Chúa Kitô mới đem lại cho chúng ta.
Ngày chúng ta khấn không chỉ có niềm vui bên ngoài mà là niềm vui từ bên trong, niềm vui từ Thiên Chúa, niềm vui của kẻ yêu mến, niềm vui của kẻ sẵn sàng bán hết vì đã tìm được kho tàng, tìm được viên ngọc quý (x.Mt 13,44-45) Chúa Kitô là kho tàng, là viên ngọc quý. Ngày khấn chúng ta không được phép buồn vì phải từ bỏ, trái lại vui mừng vì có được Chúa là niềm vui cho mình. Giây phút tuyên thệ là giây phút mà chúng ta nhảy vào trong niềm vui tuyệt đỉnh, không phải vì cái này cái kia, nhưng vì giây phút đó chúng ta thực sự trút bỏ hoàn toàn để chỉ còn lại một mình Chúa. Về sau nếu chúng ta cứ chấp nhận từ bỏ chúng ta sẽ tiếp tục hưởng được niềm vui này. Nếu chúng ta lấy lại những gì chúng ta từ bỏ, chúng ta sẽ mất dần niềm vui và sự bình an này.
Thánh Phaolô bảo: "Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: vui lên anh em!" (Pl4,4) và chỗ khác: "Anh em hãy vui mừng luôn mãi" (1Tx 5,16) Làm sao chúng ta có thể vui mãi được? Những thứ ở trần gian này không bao giờ có thể làm cho chúng ta vui mãi được, vì mọi sự sẽ qua đi. Chỉ có niềm vui của Chúa mới là niềm vui thật và vĩnh cửu mới có thể giữ chúng ta vui mãi được. Niềm vui của chúng ta là niềm vui của sự gặp gỡ giữa Chúa Kitô và chúng ta. Và như vậy chúng ta sẽ buồn khi chúng ta không thấy Chúa. Chắc chắn trong cuộc sống có những lúc chúng ta sẽ kinh nghiệm về thử thách, chán nản, buồn sâu vì nhiều lý do, nhưnng lý do chính yếu là vì không thấy Chúa trong cuộc đời của mình. Điều đó đôi khi còn gây đau khổ cho chúng ta. Chúa Giêsu biết tất cả vì chính Ngài có lúc "buồn đến chết được", nên Ngài an ủi các môn đệ và giờ đây mỗi người chúng ta: "Ít lâu nữa, anh em sẽ không còn trông thấy Thầy, rồi ít lâu nữa, anh em sẽ lại thấy Thầy." (Ga16,1) và  "Bây giờ anh em lo buồn, nhưng Thầy sẽ gặp lại anh em, lòng anh em sẽ vui mừng; và niềm vui của anh em, không ai lấy mất được" (Ga 16,20-22)  
3. Giao ước của sự sống
Trong Cựu Ước Môsê nhắc nhủ Dân phải thi hành những gì mà trong giao ước họ đã thề hứa với Thiên Chúa của cha ông họ, Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac, Thiên Chúa của kẻ sống (x.Lc 20, 37-38) để họ được sống: "Anh em hãy lo thực hành như ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, đã truyền cho anh em, không đi trệch bên phải bên trái. Anh em hãy đi đúng con đường mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, đã truyền cho anh em, để anh em được sống, được hạnh phúc và được sống lâu trên mặt đất mà anh em sẽ chiếm hữu." (Dnl 5,32-33) Những ai đi đúng đường, đi trong sự thật, "không đi trệch bên phải bên trái", đi thẳng con đường của Chúa, những người đó có sự sống.
Trong Tân Ước Chúa Kitô "là con đường, là sự thật và là sự sống." (Ga 14,6) Ai đi theo con đường duy nhất của Ngài và  sống trong sự thật, con người đó có sự sống đời đời. Khi lập Giao Ước mới và vĩnh viễn, Chúa Kitô đã nộp mình, đã đỗ máu mình ra để cho muôn người được có sự sống đời đời. Trong Giao Ước này Chúa Giêsu dẫn con người vào trong sự thông hiệp giữa Ngài với Cha để con người nhận biết Ngài và Cha Ngài, và đó là sự sống đời đời: "Sự sống đời đời đó là họ nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Giê-su Ki-tô." (Ga 17,3)
Khi chúng ta khấn chúng ta đi vào trong Giao ước tình yêu, trong đó chúng ta đi vào trong sự hiệp thông giữa Chúa Giêsu và Cha của Ngài trong Thần Khí. Vào giây phút chúng ta tuyên thệ từ bỏ tất cả, chúng ta thực sự bước vào một sự hiệp thông đích thực và sự sống đời đời đã ban cho chúng ta cách trọ vẹn vào giây phút đó. Đã hẳn sự sống này đã ban cho chúng ta ngày chúng ta chịu phép rửa tội rồi, nhưng giờ đây chúng ta nếm được một cách thiết thực và trọn vẹn hơn.
 Sự sống đó chúng ta mang trong mình và truyền cho anh chị em mình bằng đời sống hiệp thông yêu thương: "Quả vậy, sự sống đã được tỏ bày, chúng tôi đã thấy và làm chứng, chúng tôi loan báo cho anh em sự sống đời đời: sự sống ấy vẫn hướng về Chúa Cha và nay đã được tỏ bày cho chúng tôi. Điều chúng tôi đã thấy và đã nghe, chúng tôi loan báo cho cả anh em nữa, để chính anh em cũng được hiệp thông với chúng tôi, mà chúng tôi thì hiệp thông với Chúa Cha và với Đức Giê-su Ki-tô, Con của Người." (1Ga 1,2-3) Ai có trong mình sự sống Chúa Kitô người đó sẽ truyền anh chị em mình, truyền bằng đời sống cầu nguyện, bằng sự hiệp thông, bằng tình yêu tha thứ. Mỗi một hành động yêu thương luôn truyền cho anh chị em của mình sự sống, vì ở đâu có tình yêu ở đó có sự sống.
4. Chứng tá của bình an, niềm vui và sự sống
Khi sống giao ước tình yêu của mình người tu sĩ  làm chứng về niềm vui, sự bình an và sự sống đời đời. Bằng đời sống của mình họ cho thế giới thấy ngoài những bình an, niềm vui và sự sống giả tạo hoặc tạm thời, còn có sự bình an, niềm vui và sự sống vĩnh cửu đích thực nằm sâu nơi tâm hồn mỗi người phát xuất từ Thiên Chúa, từ Chúa Kitô, từ  thập giá, dưới tác động của Chúa Thánh Thần. Chỉ những ai có niềm tin mới có thể thấy được sự bình an, niềm vui và sự sống này. Đời của người tu sĩ phải là một đời sống trong bình an, niềm vui, và sự sống thật, nếu không họ không làm chứng gì cho thế gian. Đức Thánh Cha Phanxicô nói: một khuôn mặt đám tang không làm chứng được gì cho Chúa Kitô cả.
Tóm lại
Khi kết ước với chúng ta, Thiên Chúa muốn ban bình an, niềm vui, và sự sống đời đời cho chúng ta trong Con một của Ngài. Ngày khấn phải là ngày bình an, ngày vui mừng thực sự để chớ gì cuộc đời của người tu sĩ trở thành sự bình an, niềm vui  và sự sống cho chính mình và cho anh chị em mình: "Xin Thiên Chúa là nguồn hy vọng, ban cho anh em được chan chứa niềm vui và bình an nhờ đức tin, để nhờ quyền năng của Thánh Thần, anh em được tràn trề hy vọng." (Rm 15,13)

XII. SỐNG GIAO ƯỚC TÌNH YÊU LÀ SỐNG TẠ ƠN SUỐT ĐỜI
 "Ước chi lời Đức Ki-tô ngự giữa anh em thật dồi dào phong phú. Anh em hãy dạy dỗ khuyên bảo nhau với tất cả sự khôn ngoan. Để tỏ lòng biết ơn, anh em hãy đem cả tâm hồn mà hát dâng Thiên Chúa những bài thánh vịnh, thánh thi và thánh ca, do Thần Khí linh hứng. Anh em có làm gì, nói gì, thì hãy làm hãy nói nhân danh Chúa Giê-su và nhờ Người mà cảm tạ Thiên Chúa Cha." (Cl 3,16-17)
Thánh Phaolô mời gọi chúng ta tạ ơn Thiên Chúa vì biết bao ân huệ Chúa ban cho chúng ta. Và lời tạ ơn này chúng ta thực hiện nhân danh Chúa Giêsu, nhờ Chúa Giêsu Kitô, vì chúng ta không thể nào tạ ơn cho xứng đáng. Chúng ta không đủ tư cách để tạ ơn. Tất cả những ân huệ Thiên Chúa ban cho chúng ta qua Đức Kitô thì tất cả lời tạ ơn cũng ngang qua Chúa Kitô.
1. Thiên Chúa đã sáng tạo chúng ta
Việc tôi xuất hiện trên trần gian này là một ân huệ của Chúa. Tôi không sinh ra một cách ngẫu nhiên do sự kết hợp của cha mẹ tôi, nhưng qua cha mẹ tôi Thiên Chúa sáng tạo tôi ra bằng Lời của Ngài và phú cho tôi một linh hồn bằng chính hơi thở của Ngài. Tôi chỉ sống được khi có hơi thở thần khí của Ngài, còn không tôi chỉ là một thân xác không hồn.
Ngài sáng tạo chúng ta giống hình ảnh Ngài: "Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta." (St 1,26) Từ thủa đời đời Thiên Chúa đã tiền định cho chúng ta nên đồng hình đồng dạng với Con của Người ( x.Rm8,29). Không có thụ nào được sáng tạo theo hình ảnh Ngài, chỉ có chúng ta giống hình ảnh Ngài khi Ngài ban cho chúng ta ý chí, tự do, để chúng ta có thể ra đứng trước mặt Ngài, có thể đối thoại, và có thể yêu mến. Mỗi người là cái gì quý giá vô cùng, chúng ta không được làm méo mó hình ảnh của Chúa nơi chúng ta và nơi anh chị em chúng ta, nhất là các chị em trong cộng đoàn. Khi chúng ta làm méo mó hình ảnh Chúa nơi mình và nơi anh chị em mình bằng lối sống vô luân và thiếu tình thương chúng ta trở thành người vô ơn.
Hơn nữa vì yêu thương chúng ta, Ngài gọi chúng ta để chúng ta theo Ngài hiệp thông vào sự sống vĩnh cửu. Ngài đến ở với chúng ta, đi theo chúng ta, bảo vệ chúng ta, kết ước với chúng ta, tha thứ cho chúng ta... Cách riêng Ngài gọi chúng ta đi theo Ngài trong đời sống dâng hiến để chúng ta hưởng ngay từ bây giờ niềm vui, niềm hạnh phúc, sự bình an và sự sống vĩnh cửu ngay từ bây giơ... Chúng ta chỉ biết tạ ơn Ngài bằng chính cuộc đời chúng ta. Chúng ta sẽ tạ ơn Ngài khi trung thành với giao ước tình yêu này.
2. Thiên Chúa đã ban Con Một Ngài để cứu chúng ta
Nhưng trên hết chúng ta tạ ơn Chúa bởi vì Thiên Chúa yêu chúng  ta "đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời." (Ga 3,16), để trong Người Con đó Ngài ban tất cả cho chúng ta :" Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta. Một khi đã ban Người Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta?" (Rm 8,32) Vì chúng ta Thiên Chúa đã làm cho Đức Kitô thành sự tội:"Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người." (2Cr 5,21) Để tha thứ tội lỗi cho chúng ta Thiên Chúa đã để cho Con Một Ngài đổ máu ra: "Trong Thánh Tử, nhờ máu Thánh Tử đổ ra chúng ta được cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi theo lượng ân sủng rất phong phú của Người." (Cl 1, 20) Tha thứ cho chúng ta để chúng ta trở nên con của Ngài trong Đức Kitô.
Trong Con Một Ngài Thiên Chúa đến ký kết giao ước vĩnh viễn với chúng ta, để chúng ta thuộc về Ngài và Ngài là Chúa, là cha của chúng ta mãi mãi. Trong Con Một Ngài, Thiên Chúa đến sống với chúng ta cách thiết thực để ban cho chúng ta sự bình an, niềm vui và sự sống vĩnh cửu. Ngày chúng ta khấn chúng ta đi vào trong giao ước vĩnh viễn để chỉ còn biết sống cho một mình Chúa mà thôi. Tạ ơn Chúa bằng cách sống trọn vẹn cho Thiên Chúa. Đi tìm và sống cho một cái gì khác là vô ơn với tình thương Thiên Chúa:"Anh em đừng yêu thế gian và những gì ở trong thế gian. Kẻ nào yêu thế gian thì nơi kẻ ấy không có lòng mến Chúa Cha" (1Ga 2,15)
Chính Chúa Kitô cũng đã tự ý nộp mình vì yêu thương chúng ta để "cũng như vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân, thì nhờ một người duy nhất đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thành người công chính." (Rm 5,19) Chính nhờ cái chết của Ngài mà chúng ta được sống, được giao hòa với Thiên Chúa. Ngài đang có đây với chúng ta để từng ngày kéo chúng ta vào trong hành vi tạ ơn của Ngài là hy sinh tất cả vì yêu mến Chúa, một hành vi tự hạ và tự hạ cho đến chết.  
Khi chúng ta khấn chúng ta đi vào trong hành vi tự hạ, hành vi tạ ơn này của Chúa Kitô. Một đời sống tự cao tự đại luôn là một hành vi vô ơn, bởi vì chúng ta nhận tất cả từ Thiên Chúa,  từ cái chết và sự phục sinh của Chúa Kitô. Nếu Chúa Kitô nhận lãnh mọi sự từ nơi cha và trao lại cho cha tất cả, bằng hành vi tự hạ thì chúng ta cũng vậy.  Chính hành vi tự hạ của Ngài đã trở thành lời tạ ơn đích thực, và ngày hôm nay hành vi đó đang diễn ra từng ngày trong cuộc đời chúng ta, nhất là trong hy lễ tạ ơn mà chúng ta tham dự  mỗi ngày. Sống Giao ước tình yêu là sống với hy lễ tạ ơn suốt đời. Mỗi lần tham dự Thánh Lễ là mỗi lần chúng ta để cho Chúa Kitô kéo mình vào trong hành vi tạ ơn của Ngài.
3. Thiên Chúa đổ Chúa Thánh Thần
Thánh Phaolô nói: "Trông cậy như thế, chúng ta sẽ không phải thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta." (Rm 5,5)
Để đổ Thần Khí vào lòng chúng ta, Con Một Thiên Chúa phải trải qua đau khổ và cái chết. Chúa Thánh Thần chỉ được ban xuống khi nào trái tim Chúa Giêsu bị đâm thủng để từ đó nước và máu chảy ra. Máu tượng trưng cho sự hy sinh của Chúa Kitô, nước tượng trưng cho Chúa Thánh Thần. Cắt nghĩa cho câu nói của Chúa Giêsu: "Ai khát, hãy đến với tôi, ai tin vào tôi, hãy đến mà uống! Như Kinh Thánh đã nói: Từ lòng Người, sẽ tuôn chảy những dòng nước hằng sống"  thánh Gioan nói:"Đức Giê-su muốn nói về Thần Khí mà những kẻ tin vào Người sẽ lãnh nhận. Thật thế, bấy giờ họ chưa nhận được Thần Khí, vì Đức Giê-su chưa được tôn vinh." (Ga 7,38-39) Chỉ sau khi Chúa Kitô chết và phục sinh, Thần Khí của Chúa Kitô mới được trút xuống lòng chúng ta.
Thần Khí sẽ dạy chúng ta về những gì Chúa Giêsu đã nói: "Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn. (Ga 16,13) và "Phần anh em,  dầu mà anh em đã lãnh nhận từ Đức Ki-tô ở lại trong anh em, và anh em chẳng cần ai dạy dỗ nữa. Nhưng vì dầu của Người dạy dỗ anh em mọi sự -mà dầu ấy dạy sự thật chứ không phải sự dối trá-, thì theo như dầu ấy đã dạy anh em, anh em hãy ở lại trong Người." (1 Ga2,27)
Thần Khí kêu lên tiếng Abba, Cha ơi (x.Rm8,15) hoặc chính Người kêu lên trong chúng ta (x.Gl 4,6) Chúng ta không có khả năng kêu lên tiếng Abba, chỉ có Thần Khí của Con Một Thiên Chúa mới làm cho chúng ta gọi Thiên Chúa là Cha.
Thần Khí là hơi thở làm cho chúng ta sống: "Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần" (Ga 20,22) Nhờ Thần Khí mà chúng ta sống.
Thần Khí là gió, Ngài muốn thổi đâu thì thổi (x.Ga 3,8) Ngài là lửa thiêu hủy những tội lỗi của chúng ta.
Thần Khí là sức mạnh: "Phần Thầy, Thầy sẽ gửi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa. Còn anh em, hãy ở lại trong thành, cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống." (Lc 24,49) Nhờ sức mạnh của Thần Khí mà chúng ta có thể chiến đấu chống lại sự dữ.
Thần Khí là ấn Chúa đóng vào chúng ta: "Đấng củng cố chúng tôi cùng với anh em trong Đức Ki-tô và đã xức dầu cho chúng ta, Đấng ấy là Thiên Chúa. Chính Người cũng đã đóng ấn tín trên chúng ta và đổ Thần Khí vào lòng chúng ta làm bảo chứng."(2Cr 1, 21-22) Ngày chúng ta khấn là ngày Thiên Chúa đóng ấn Thần Khí làm bảo đảm cho Giao ước tình thương.
Thần Khí là hoa quả đầu mùa: "chúng ta đã lãnh nhận Thần Khí như ân huệ mở đầu, nhưng còn trông đợi Thiên Chúa ban cho trọn quyền làm con, nghĩa là cứu chuộc thân xác chúng ta nữa." (Rm 8, 23) Ngày chúng ta khấn Thiên Chúa ban Thần Khí cho chúng ta như là sự hứa hẹn ban đầu cho những gì trọn vẹn mai sau.
Thần Khí cầu nguyện trong chúng ta vì chúng ta không biết cầu nguyện: "Hơn nữa, lại có Thần Khí giúp đỡ chúng ta là những kẻ yếu hèn, vì chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải; nhưng chính Thần Khí cầu thay nguyện giúp chúng ta, bằng những tiếng rên siết khôn tả.27 Và Thiên Chúa, Đấng thấu suốt tâm can, biết Thần Khí muốn nói gì, vì Thần Khí cầu thay nguyện giúp cho dân thánh theo đúng ý Thiên Chúa." (Rm 8,26-27)
Thần Khí ghép chúng ta nên một với Chúa Kitô. Ngày chúng ta khấn chúng ta được Chúa Thánh Thần làm cho nên một với Chúa trong một giao ước mới và vĩnh viễn, để những gì có nơi Chúa Giêsu truyền sang cho chúng ta.
Không bao giờ chúng ta có thể tuyên thệ và trung thành với giao ước tình yêu này, nếu như không có Chúa Thánh Thần. Chúng ta tạ ơn Chúa bằng cách sống ngoan ngoãn để cho Chúa Thánh Thần hướng dẫn cuộc đời chúng ta, bằng cách mở lòng ra cho Chúa Thánh Thần để Ngài dẫn chúng ta vào trong tình yêu Thiên Chúa.
4. Tạ ơn Chúa ngang qua cộng đoàn
Tạ ơn Chúa và cũng cám ơn cộng đoàn, bởi vì ngang qua cộng đoàn Chúa ban nhiều ơn phúc xuống cho chúng ta: Ngài kêu gọi, đào tạo chúng ta, và ký kết giao ước với chúng ta ngang qua bề trên và cộng đoàn. Ngài chỉ cần chúng ta đáp lại tình thương của Ngài bằng cách yêu mến chị em. Nếu chúng ta không yêu mến, gây đau khổ cho chị em, chúng ta làm cho Thiên Chúa đau khổ, lúc đó chúng ta trở thành người vô ơn.
TỔNG KẾT
Giao ước tình yêu là một giao ước vĩ đại. Vĩ đại vì đó là sáng kiến từ một Thiên Chúa tình yêu. Con người không bao giờ dám nghĩ tới, bởi vì đó là tình yêu vượt quá trí khôn con người. Chúng ta chỉ biết mở tay ra đón nhận và đáp lại tình thương đó bằng việc trung thành với giao ước tình yêu mà chúng ta đã cam kết với Chúa, bằng việc sống khiêm nhường và bằng việc yêu mến Chúa và anh chị em mình. Chúng ta  lấy cuộc đời mình mà tạ ơn Chúa.
Ở đây chúng ta nên lấy lại bài ca của thánh Phaolô tông đồ trong thư Ngài gởi cho tín hữu Êphêsô để ca ngợi tình thương Chúa :
Chúc tụng Thiên Chúa
là Thân Phụ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta.
Trong Đức Ki-tô,
từ cõi trời, Người đã thi ân giáng phúc
cho ta hưởng muôn vàn ơn phúc của Thánh Thần.

Trong Đức Ki-tô,
Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ,
để trước thánh nhan Người,
ta trở nên tinh tuyền thánh thiện,
nhờ tình thương của Người.

Theo ý muốn và lòng nhân ái của Người,
Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử
nhờ Đức Giê-su Ki-tô,

để ta hằng ngợi khen ân sủng rạng ngời,
ân sủng Người ban tặng cho ta
trong Thánh Tử yêu dấu.

Trong Thánh Tử, nhờ máu Thánh Tử đổ ra
chúng ta được cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi
theo lượng ân sủng rất phong phú của Người.

Ân sủng này, Thiên Chúa đã rộng ban cho ta
cùng với tất cả sự khôn ngoan thông hiểu.

Người cho ta được biết thiên ý nhiệm mầu:
thiên ý này là kế hoạch yêu thương
Người đã định từ trước trong Đức Ki-tô.

Đó là đưa thời gian tới hồi viên mãn
là quy tụ muôn loài trong trời đất
dưới quyền một thủ lãnh là Đức Ki-tô.
Cũng trong Đức Ki-tô,

Thiên Chúa là Đấng làm nên mọi sự
theo quyết định và ý muốn của Người,
đã tiền định cho chúng tôi đây làm cơ nghiệp riêng
theo kế hoạch của Người,

để chúng tôi là những người đầu tiên
đặt hy vọng vào Đức Ki-tô,
chúng tôi ngợi khen vinh quang Người.

Trong Đức Ki-tô, cả anh em nữa
anh em đã được nghe lời chân lý
là Tin Mừng cứu độ anh em;
vẫn trong Đức Ki-tô,
một khi đã tin, anh em được đóng ấn Thánh Thần,
Đấng Thiên Chúa đã hứa.

Thánh Thần
là bảo chứng phần gia nghiệp của chúng ta,
chờ ngày dân riêng của Thiên Chúa được cứu chuộc,
để ngợi khen vinh quang Thiên Chúa.

AMEN








Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét